HỢP TỊNH THẬP BÁT PHI TINH SÁCH THIÊN TỬ VI ĐẨU SỐ TOÀN TẬP (PHẦN 2)
77. Hình tính phú
Nguyên phu Tử Vi đế tọa, sinh vi hậu trọng chi dung.
Thiên Phủ tôn tinh, dã tác thuần hòa chi thể.
(Tử Vi nam mệnh thủ trung
Uy nghi phúc hậu hình dung an nhàn
Thiên Phủ tôn quý tinh bàn
Hành vi hòa nhã khoan khoan nhịp chèo)
Kim Ô phì mãn, Ngọc Thố thanh kỳ
(Thái Dương hơi mập tiếp theo
Thái Âm thanh tú trăng treo đêm rằm
Thiên Cơ vi bất trường bất đoản chi tư, tình hoài hảo thiện.
(Thiên Cơ bẩm tính thiện căn
Dáng hình dong dỏng nét văn nhân tài)
Vũ Khúc nãi chí yếu chí khẩn chi thao, tâm tính quả quyết.
(Vũ Khúc nhanh nhẹn chẳng sai
Tâm tính quả quyết, có tài lược thao)
Thiên Đồng phì mãn, mục tú thanh kỳ.
(Thiên Đồng phì mãn không cao
Mắt thời rất đẹp trông vào trong veo)
Liêm Trinh mi khoan khẩu khoát diện hoành,
vi nhân tính bạo hảo phẫn hảo tranh.
(Liêm Trinh tính tựa cọp beo
m*y rộng miệng lớn thích theo công bình)
Tham Lang vi thiện ác chi tinh,
nhập miếu tất ứng trường tủng,
xuất viên tất định ngoan hiêu.
(Tham Lang thiện ác chi tinh
Nhập miếu cao lớn thân hình nở nang
Nếu mà lạc hãm gian ngoan
Ngạo mạn phóng túng tham lam ai bằng).
Cự Môn nãi thị phi chi diệu, tại miếu đôn hậu ôn lương.
(Cự Môn là chúa thị phi
Nhập miếu đôn hậu cùng vì thiện lương).
Thiên Tướng tinh thần, Thiên Lương ổn trọng, tâm sự ngọc khiết băng thanh.
(Tinh thần ổn trọng Tướng, Lương
Băng thanh ngọc khiết tâm thường thanh cao)
Thất Sát như Tử Lộ bạo hổ phùng hà,
Hỏa Linh tự Dự Nhượng thôn thán trang ách.
Bạo hổ phùng hà hề mục thái hung ngoan,
Thôn thán trang ách hề ám lang thanh trầm.
(Thất Sát uy mãnh làm sao
Hổ dữ thét gào khi gặp khúc sông
Lấy tướng Tử Lộ mà trông
Mắt to, thần dữ chứ không hiền hòa
Hỏa Linh như quỷ dạ xoa
Dự Nhượng rạch mặt thù mà chẳng quên
Thâm trầm tựa sói trong đêm
Nóng mà chẳng vội chí bền sức dai).
Tuấn nhã Văn Xương mi thanh mục tú,
Lỗi lạc Văn Khúc khẩu thiệt tiện nịnh,
Tại miếu định sinh dị chí, thất hãm tất hữu ban ngân.
(Văn Xương tuấn nhã mi thanh
Thông minh mắt sáng lại lanh lợi nhiều
Văn Khúc khéo nói khéo chiều
Quang minh nhưng dễ mang điều thị phi
Miếu nốt ruồi lạ có khi
Lạc hãm có sẹo, da thì lổ loang).
Tả Phụ Hữu Bật ôn lương quy mô, đoan trang cao sĩ.
(Tả Hữu lương thiện đường hoàng
Tựa nguời chí sĩ nghiêm trang dáng hình).
Thiên Khôi Thiên Việt cụ túc, trọng hợp Tam Thai thập toàn mô phạm.
(Khôi Việt phong thái uy nghi
Gặp Tam Thai ấy, tức thì phép khuôn).
Kình Dương Đà La, hình xú mạo thô, hữu kiểu trá thể thái.
(Kình Đà hình xấu nét thô
Thế nhưng thường giả bộ làm mẽ cơ)
Phá Quân bất nhân, bối trọng mi khoan, hành tọa yêu tà gian trá hảo hành kinh hiểm.
(Phá Quân bạo bẽo ơ hờ
m*y rộng lưng dày, ngồi đứng giảo gian)
Tính mạo như xuân hòa ái, nãi thị Lộc Tồn chi tình đức.
(Lộc Tồn hòa ái nhẹ nhàng
Hình tươi dung đẹp xuân tràn khắp thân)
Tình hoài tự hỏa phong xung, thử thành Phá Hao chi uy quyền.
(Ham chơi tính vội thập phần
Song Hao hội với Phá Quân uy quyền).
Tinh luận miếu vượng tối phạ không vong,
Sát lạc không vong cánh vô uy lực.
(Luận các sao, đã miếu vượng thì rất sợ gặp phải Không Vong,
Sát tinh mà gặp Không Vong thì cũng hoàn toàn chẳng có uy lực).
Quyền Lộc nãi cửu khiếu chi kỳ,
Hao tích tán bình sinh chi phúc.
(Chính Quyền Lộc khiến cho cửu khiếu -mắt, mũi, miệng, tai…- có nét đặc biệt,
Song Hao khiến cho bị tán mất cái nét phúc hậu vốn có).
Lộc phùng Lương Ấm bão tư tài ích dữ tha nhân,
Hao ngộ Tham Lang tuy dâm tình ư tỉnh để.
(Thiên Lương gặp Lộc là người ôm tài sản của mình đem đi làm từ thiện
Tham Lang (hãm) gặp Song Hao là kẻ có tính tình dâm đãng sâu kín).
Tham tinh nhập ư Mã viên dị thiện dị ác,
Ác diệu phù đồng Thiện diệu bẩm tính bất thường.
(Tham Lang đóng ở đất tứ Mã thì tính dễ thiện cũng dễ biến thành ác,
Ác sát tinh đồng cung với thiện tinh thì tính khí cũng thất thường).
Tài cư Không Vong ba tam lãm tứ,
Văn Khúc vượng cung văn nhất tri thập.
Ám hợp Liêm Trinh vi tham lạm chi tào lại.
(Tài tinh ở chỗ Không Vong thì muốn 3 phải làm phải đọc 4, ý nói vất vả, kém thông minh,
Văn Xương Văn Khúc ở chỗ vượng thì học 1 biết 10, ý nói rất thông minh.
Ám tinh mà hội hợp Liêm Trinh thì là lũ viên chức, quan lại tham nhũng).
Thân Mệnh ti số thực gian đạo chi kỹ nhi, trư đồ chi lưu,
Thiện Lộc định thị kỳ cao chi nghệ tế xảo, linh lợi chi nhân.
(Thân Mệnh nếu mà gặp cách làm nghề gian đạo, kỹ xướng ca nhi, phường đồ tể,
mà có thêm Thiện tinh Lộc tinh thì đoán định là kẻ lanh lợi, tinh thông, cao tay, giỏi nghề).
Nam cư Sinh Vượng tối yếu đắc địa,
Nữ cư Tử Tuyệt chuyên khán Phúc Đức.
(Nam nhân mệnh ở chỗ Sinh Vượng thì tối quan trọng phải xem tinh đẩu có đắc địa chăng,
Nữ nhân mệnh ở chỗ Tử Tuyệt thì phải xem chuyên sâu vào cung Phúc Đức).
Mệnh tối hiềm lập vu bại địa,
Tài nguyên khước phạ phùng Không Vong.
(Mệnh rất sợ an vào chỗ bại địa,
Tài tinh tài cung thì ghét gặp phải Không Vong).
Cơ Hình Sát, Ấm Cô tinh luận tự tục chi cung, gia ác tinh Kị Hao bất vi kỳ đặc.
(Cơ Hình Sát, Lương Cô Quả hội hợp khi luận cung Tử Tức, có thêm ác sát tinh với Kị Hao nữa thì chả có gì đáng kể. QNB chú: có lẽ ý muốn nói là tuyệt tự, ko có con cái).
Đà Hao Tù chi tinh thủ Phụ Mẫu chi triền, quyết nhiên phá tổ hình thương.
(Đà La, Hao, Phá, Liêm Trinh thủ cung Phụ Mẫu thì quyết đoán là khắc cha mẹ, phá tổ nghiệp, bị hình thương)
Kiêm chi đồng cách nghi tương, căn cơ yếu sát.
(Cộng thêm với xem cách cục và hạn của trẻ con sao cho thích hợp và chặt chẽ).
Tử Vi phì mãn, Thiên Phủ tinh thần.
Lộc Tồn lộc chủ dã ứng hậu trọng.
(Tử Vi béo tốt, Thiên Phủ lanh lợi.
Với cả Lộc Tồn cùng là phúc hậu cẩn thận, giàu có)
Nhật Nguyệt Khúc Tướng Đồng Lương Cơ Xương giai vi mỹ tuấn chi tư,
Nãi thị thanh kỳ chi cách, thượng trường hạ đoản mục tú mi thanh.
(Nhật, Nguyệt, Vũ Khúc, Thiên Tướng, Thiên Đồng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Văn Xương đều có dung nhan đẹp đẽ, tuấn nhã, là cách “thanh kỳ”, thượng trường hạ đoản, m*y thanh mắt sáng.
QNB chú: khi chúng đắc miếu thì đều được liệt vào các tướng tốt, thanh nhã cao quý theo Nhân Tướng học).
Tham Lang đồng Vũ Khúc hình tiểu thanh cao nhi lượng đại,
Thiên Đồng như Đà Kị phì mãn nhi mục mục tiểu.
(Tham Lang với Vũ Khúc thì dáng hình nhỏ, thanh cao, bao dung,
Thiên Đồng cũng như Đà La, Hóa Kị thì phì mãn và mắt bé).
Kình Dương thân thể t*o thương,
Nhược ngộ Hỏa Linh Cự ám tất sinh dị chí.
Hựu trị Hao Sát định chủ hình xú mạo thô.
(Kình Dương thì thân thể dễ có thương tích,
nếu gặp cả Hỏa Linh Cự và Diêu Đà Kị thì tất sẽ có nốt ruồi lạ.
Lại gặp thêm Hao Sát tinh nữa thì nhất định dáng hình xấu xí, diện mạo thô kệch).
Nhược cư Tử Tuyệt chi hạn,
Đồng tử nhũ bộ đồ lao kỳ lực,
Lão giả diệc nhiên thọ chung.
(Nếu ở hạn của Tử, Tuyệt
Thì trẻ nít dễ phải bú ngoài, rất khó nhọc,
Và thọ mạng của người già cũng đáng lo như vậy).
Thử tinh tú trung chi cương lĩnh, nãi vi tinh vĩ chi cơ quan,
ngoạn vị chuyên tinh, dĩ tham huyền diệu.
(Đó là cương lĩnh bên trong của Số, là then chốt tinh vi quan trọng.
Phải nghiền ngẫm cho thấu đáo, mà tham thấu cái lẽ huyền diệu).
Hạn hữu cao đê, tinh tầm hỉ nộ,
giả như vận hạn bác tạp, chung hữu phù trầm.
(Hạn có phân chia cao thấp, xem ở chỗ hỉ nộ của sao
Nếu như vận hạn mà bác tạp, thì chung quy là sẽ thăng trầm).
như phùng sát địa, canh yếu thôi tường,
đãn ngộ không vong, tất tu tế sát.
(Vào hung ra hiểm, có thể vẫn điềm nhiên lãnh đạm, mà đối mặt với khốn ách,
Nếu như vào nơi sát địa, vẫn phải suy xét cho tường tận,
Nếu như gặp Không Vong, thì cũng phải quan sát cho tỉ mỉ.
Tinh nghiên vu thử, bất hoạn bất thần.
(Nghiên cứu những điều ấy cho tinh, thì chẳng lo là sẽ không thông).
78. Tinh viên luận
Tử Vi Đế Tòa, lấy Phụ Bật làm trợ lý phù tá, làm chủ đứng đầu chư tinh, chính là mạch nguồn của vận động trong Số, là linh hồn của vạn vật, quản cả Nam Bắc đẩu mà thành Số.
Đại để thì khi Thủy được khai thông thì âm dương Ký Tế, thủy mà thịnh thì dương bị tổn thương, hỏa mà thịnh thì âm bị diệt, hai đối tượng ấy quyết không thể thiếu hay thiên lệch hẳn đi được. Cho nên biết để đạt được cân bằng thì mới là tốt đẹp.
Dần là cung của Mộc, là thời điểm tam dương giao Thái, chỗ của thảo mộc bắt đầu manh nha. Cho tới Mão vị thì Mộc của chúng rất vượng vậy, Tham Lang, Thiên Cơ được đắc miếu ở đây là vì thế, Thiên Tướng thuộc Thủy đến Dần là vượng tướng, Cự Môn thuộc Thủy đến Mão được sơ thông, Mộc được Thổ vun trồng, lại được thêm Thủy tới để tưới tắm, tam phương mà được thêm Phá Quân Văn Khúc thủy tương hội là đẹp tuyệt, nếu mà có thêm Lộc Tồn là tuyệt mỹ hoàn hảo.
Cự Môn thủy tới Sửu, Thiên Lương thổ tới Mùi, Đà La kim tới tứ mộ cung, nếu như chúng được gặp Kình Dương kim, bởi Thổ là mộ khố của Kim, thời Kim được hanh thông, lại thêm Thiên Phủ thổ Thiên Đồng thủy mà tương sinh cho nhau, đó là kim sấn thổ phì, thuận cái đức của chúng (thuận kỳ đức) mà Sinh, Thành.
Ngọ là chỗ của Hỏa, Tị là chỗ Tuyệt địa của Thủy và Thổ, thêm Hỏa của cung Ngọ nóng quá mà khiến dư khí truyền sang Tỵ, thì Thủy đảo luồng vận hành, Hỏa khí nghịch thì nó mãnh liệt, nhất định sẽ quy về Tị. Ngọ thuộc Hỏa đức, có thể sinh cho chỗ Tuyệt của Thổ, đó là lý do mà Liêm Trinh hỏa cư ở chỗ này. Đến chỗ Ngọ hỏa, vượng chiếu ly minh mà thấu đáo thông suốt trong ngoài (biểu lý), mà Văn Khúc thủy nhập miếu. Nếu hội Tử, Phủ thời Khôi tinh củng đẩu, thêm Thiên Cơ mộc, Tham Lang mộc, vậy là biến cảnh, càng thêm đặc biệt.
Thân Dậu là khí của Tây phương thái bạch, Vũ Khúc cư Thân là hảo sinh, Kình Dương tại Dậu thì thường dụng tính sát, thêm Cự Môn, Lộc Tồn, Đà La là thêm tính cấp – gấp gáp nóng vội, nếu được vận hành nghịch gặp thiện hóa để cảm hóa cái ác đi thì thực là tuyệt vời.
Hợi thuộc Thủy là đất của Văn Khúc, Phá Quân, là kẻ sĩ văn minh thanh cao, là nguồn gốc liêm khiết của muôn vàn chi phái, như mạch đất của sông lớn chẳng bao giờ vơi cạn. Cư chốn Hợi vị là tướng nhập thiên hà, đúng là vi diệu. Phá Quân thủy ở Tý là chỗ vượng của Thủy, nên như sóng to của biển lớn cuồn cuộn lên, thích hợp với việc trông coi ở ngoài xa mà không phù hợp với việc để kề cận bên mình, chỗ của Phá Quân đúng là ở đó, nếu cư tứ mộ là khắc, thổ choán hết chỗ của thủy nên nước tràn lan khắp chốn, nhất định cần được Vũ Khúc kim làm cho nguyên khí của nó không bị tuyệt mới là vi diệu.
Ngoài ra, chư tinh còn theo Thân Mệnh đưa đẩy, không thực nghiệm thì không thể đến với được cái huyền cái vi của chúng.
79. Chư Tinh vấn đáp
QNB chú: Dưới đây sẽ có một số chỗ nói về các sao và vị trí đồng độ với với nhau là không thể xảy ra ở trong môn Tử Vi Đẩu Số, nó vừa có thể là các sai lạc vừa có thể là dấu tích lẫn tạp từ các môn tiền thân của Tử Vi Đẩu Số,… thí dụ Tử Vi không thể tam hợp chiếu với Nhật Nguyệt, thí dụ như Vũ Khúc không thể đồng cung với Nhật Nguyệt, thí dụ Thái Âm gặp Cự Môn,… được. Hay như chỗ sao Thiên Quý đó hẳn không phải là sao Thiên Quý đi cặp với sao Ân Quang. Độc giả lưu ý vậy!
Đem đối chiếu với Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư thì xem ra khi La Hồng Tiên viết nó đã có những hiệu chỉnh rất tích cực cho môn Tử Vi Đẩu Số, mặc dù ở trong TVĐS Toàn Thư vẫn còn một số nhầm lẫn. Bên cạnh đó thì phần “chư tinh vấn đáp” trong sách này lại có những câu hoàn chỉnh về logic của câu văn hơn so với TVĐS Toàn Thư, cho nên giới Tử Vi thường nói đem 2 cuốn Toàn Thư và Toàn Tập mà tham khảo bổ khuyết cho nhau là rất xác đáng vậy.
79.1 Hỏi về Tử Vi chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Tử Vi thuộc Thổ, là Đế tinh tôn quý tọa giữa trời, chủ chưởng quản then chốt của tạo hóa, thống trị nhân sinh. Dựa vào ngũ hành nuôi nấng vạn vật, là tạo định nên Số của Mệnh con người.
An sao theo triền độ các cung các sở ti, theo niên số từng nơi từng năm mà chưởng quản tước lộc. Ở khắp các cung đều giáng phúc và thường tiêu giải cái ác. Cần xem Tam Thai, mà Tử Vi thủ mệnh đúng là Trung Thai, trước nó 1 vị là Thượng Thai, sau nó 1 vị là Hạ Thai. Khán tại những chỗ mà nó miếu vượng, xem thủ chiếu có cát hung tinh như thế nào để mà định là tốt hay dở. Như miếu vượng có hóa cát thì cực kỳ tuyệt vời, hãm địa mà có hóa hung thì vô cùng hung, hạn tốt lành chưa chắc đã hay nhưng hạn hung hiểm thì chắc chắn là hung hiểm.
Mừng được Phụ Bật đến làm tướng tá, Thiên Tướng Xương Khúc đến làm tùy tùng, Khôi Việt làm truyền lệnh, lấy Nhật Nguyệt làm phân định tổ chức ti sở, lấy Lộc Mã làm chưởng ti tước lộc, lấy Thiên Phủ làm chủ ngân khố kho tàng. Uy lực của nó có thể hàng phục được Thất Sát và chế phục được Hỏa Linh.
Thân Mệnh của người ta nếu được gặp Lộc Tồn đồng cung, Nhật Nguyệt tam hợp chiếu thì quý tới mức không lời nào tả xiết.
Không có Phụ Bật đồng hành thì coi là cô quân, tuy như mỹ ngọc nhưng chưa đầy đủ cái hay. Nếu mà thêm chư sát tinh đồng cung hoặc chư hung tinh thủ chiếu thì tựa như ở vào cái thế người quân tử lánh nơi thôn dã còn kẻ tiểu nhân đắc thời tại vị, bình sinh thường làm chuyện ác mà lại còn gian trá giả vờ lương thiện.
Nếu cùng với Tù tinh đồng cư mà lại không có Tả Hữu tướng tá thì định là tư lại (tiểu lại, chức quan nhỏ). Nếu như (Tử Vi) lạc vào các cung Tật Ách, Huynh Đệ, Nô Bộc, Tướng Mạo (Phụ Mẫu), bốn nhược cung, thì chủ nhân vất vả, làm việc khó thành, tuy được trợ giúp nhưng cũng không coi là phúc. Cần xem thêm cho tường tận về cung độ tương thích, mà luận về ứng cứu của tinh triền.
Nếu cư ở Quan Lộc, Thân, Mệnh, tam cung rất cần có Tả Hữu tọa thủ cùng, có Thiên Tướng, Lộc Mã giao trì, không lạc vào chỗ Không Vong, lại thêm Mệnh tọa Sinh hương thì có thể luận là quý.
Nếu như có Tả Hữu củng chiếu cũng luận là quý. Như Khôi Việt tam hợp, lại hội với các cát tinh thì tất sẽ làm quan cao tột bực.
Đế hội Văn Xương củng chiếu, khi đến hạn tốt đẹp phù trì thời được tuyển chọn làm văn quan.
Đế có thể hàng phục được Thất Sát thành quyền mà sử dụng, có thêm cát tinh đồng vị thì Đế và Tướng tất sẽ có khí lực, chư cát hội chiếu thì làm chức quan võ.
Tài Bạch, Điền Trạch có Tả Hữu thủ vệ, có Vũ Khúc, Thái Âm đồng độ, không gặp ác tinh, tất sẽ giàu có hoặc làm quan giữ của cải. Thêm Lộc Tồn đồng cung, Vũ Khúc trong Thân Mệnh thì càng đặc biệt kỳ diệu.
(Tử Vi) Tại Tử Tức cung mà đắc thì xem tỏ tường thêm có các cát tinh phù tá, chủ sinh quý tử. Nếu độc thủ ở tử tức mà vô tướng tá thì con cái ít ỏi, cô đơn.
(Tử Vi) Tại Thê cung hội các cát tinh, được quý và vợ chồng hòa thuận tới già, tất nhiên là phải không có sát tinh.
Thiên Di tuy là cường cung, (Tử Vi) cũng cần thiết có tướng tá phù trì, có cát tinh chiếu Mệnh thì tất sẽ được người người yêu quý.
(Tử Vi) Tại Phúc Đức cung đối với nam coi như hãm địa, đối với nữ lại coi là miếu nhạc, phùng cát thì tươi đẹp, phùng hung thì nguy hiểm.
79.2 Hỏi về Thiên Cơ chủ định thế nào?
Đáp viết:
Thiên Cơ thuộc Mộc, là Nam đẩu đệ tam tinh, là Thiện tinh có sở trường là tính toán mưu lược. Hóa khí là Thiện, lại hợp với những công việc trù liệu, có thể giải được sự thuận nghịch của chư tinh.
Định số ở nhân mệnh, gặp chư cát tinh tụ hội tất vạn sự đều đẹp đẽ hiền hòa. Chuyên cần ở việc lễ Phật, kính trọng đối với lục thân (cha mẹ, vợ chồng, anh em…), dễ thuận ở ẩn lại cũng dễ thích hợp với tăng đạo.
Chẳng bao giờ có tâm ác ngược bất nhân, mà lại có cơ trí ứng biến lanh lẹ, có trí nhớ tuyệt vời. Có kiến giải sâu sắc, sát thực, khi vào việc thì thẳng thắn chính trực.
Nữ mệnh gặp nó là phúc, gặp cát tinh thì càng thêm cát lợi, nhưng gặp hung thì cũng thêm hung.
Thiên Cơ mà thủ cung an Thân, gặp thêm Thiên Lương thì tất sẽ là người có tài nghệ cao cường, tay nghề tinh xảo đệ nhất. Học giả cần phải xem kỹ cho tường tận.
79.3 Hỏi Thái Dương chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Thái Dương tinh thuộc Hỏa, là tinh của Mặt Trời vậy. Là biểu nghi của tạo hóa, hoặc tượng trưng cho phái nam.
Tại Số chủ nhân có phúc ứng rõ rệt, thuộc ti Quý, là võ, là văn, mừng có Phụ Bật làm tướng, có Lộc Tồn tướ cao, có Thái Âm tương sinh.
Cùng chư cát tụ hội tất sẽ ban điều tốt lành cát tường, ở cùng chỗ với sao hắc ám thì tất sẽ lao tâm phí sức. Nếu tùy xướng trong Thân Mệnh, cư nơi miếu nhạc là rất quang trọng ở trong số, là cơ cấu then chốt của Quan lộc. Sau nữa là hóa khí thành Quý, thành Lộc, vô cùng thích hợp ở Quan Lộc cung. Với nam nhân thì coi như sao chủ về cha, với nữ nhân thì coi là chủ về chồng.
Tại Dần Mão Thìn Tị là Thăng Điện (lên cung điện), tại Ngọ là nhập miếu, chính là đại phú quý vậy.
Tại Mùi Thân là xế bóng, vào việc thường chăm chỉ trước sau thì lười biếng.
Tại Dậu là lặn đằng Tây, quý mà không hiển, đẹp mà không thực.
Nếu tại các hãm cung Tuất Hợi Tý Sửu thì đều là chỗ không có quang huy, gặp thêm Tù Ám Phá Quân thì cả đời lao lục, cơm áo thiếu thốn.
Như thế mà gặp Hóa Kị thì mắt có tổn thương, khó hòa hợp với người, gặp nhiều thị phi. Nữ nhân mà gặp tại Phu cung thì bất lợi, gặp thêm Hao thì thành hôn mà chẳng có lễ nghi gì cả.
Nếu gặp các cát tinh và Lộc Tồn đồng cung, mặc dù chủ về tài bạch nhưng khiến cho người ta không được an nhàn.
Nếu gặp Tả Hữu Thái Âm, đều là đại quý. Lại đồng thời gặp Hỏa Linh Hình Kị thì khắc cha trước hết.
Thân Mệnh Quan Lộc gặp chư cát tinh thủ chiếu, được thêm Thái Âm cùng chiếu, thì chức cao và giàu có đều được toàn vẹn tốt đẹp.
Nếu ở Tài Bạch cung mà vượng địa, gặp chư cát tương trợ, không gặp Cự Môn đến triền độ sẽ được phú quý lâu dài. Nếu như cư ở chỗ vượng tướng mà không có Không Kiếp thì một đời chủ giàu có lắm lắm.
Cư Điền Trạch cung được hưởng ấm trạch của cha ông, tổ tông. Nếu gặp Kiếp Sát Lưu Sát Tuế Quân Bạch Hổ giao hội thì tất sẽ khắc cha.
Tại cung Tử Tức có quang huy thì hưng vượng, có hình sát thì dẫu thành vẫn có tổn thất.
Tại Nô Bộc nhược cung, nếu phùng cát thì có thể làm môn khách cho quý nhân, nếu không cũng là giúp việc cho công hầu khanh tướng.
Tại Phu Thê mà người nam có chư cát tinh tụ hội thì có thể nhờ vợ mà được quý, nếu hãm địa gia sát thì hại vợ mà chẳng được tốt.
Nếu Tả Hữu và chư cát tinh đều tới hội, đại tiểu nhị hạn đến đó thì tất sẽ có việc mừng hưng thịnh gia môn bất ngờ. Nếu hạn lại chẳng tới đó, không thể lấy tam hợp nghị luận được, e rằng có sai sót. Nữ mệnh mà gặp nó, hạn tới cũng có thể an ổn hưởng thụ.
Cùng với Linh Hình tụ tập ở hạn, thì trước mắt có ưu phiền, trước tiên khắc cha.
Hình Sát tụ hạn thì kẻ làm quan có ưu phiền về sự nghiệp, kẻ thứ dân lại dễ bị thị phi quan tụng quấy nhiễu. Cùng với Kình Đà tụ thì sẽ có tật bệnh, cùng Hỏa Linh hội hợp nữa thì đau khổ chẳng ít đâu. Theo đó mà suy ra họa phúc hiển hiện trước mắt.
Thiên Di cung mà gặp các cách xấu kể trên là khó mà giữ được tổ nghiệp, xuất tổ ly gia, lìa cành đổi lá (ý nói dễ tán gia bại sản phải lưu lạc khỏi quê hương bản quán). Hạn tới đó thì chắc chắn có sự di động. Nữ mệnh mà gặp thì cũng coi như chẳng có gì tốt đẹp, nếu may được Phúc Đức cung có tướng tá cát tinh thì lại là chiêu nạp được chồng tốt
Tướng Mạo cung (Phụ Mẫu) có Thái Dương tọa thủ thì nam coi đó là tượng của cha, nếu sáng đẹp thì là cát lành còn thất huy mờ ám thì là khắc cha.
79.4 Hỏi Vũ Khúc chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Vũ Khúc là sao thứ sáu thuộc Bắc đẩu, ngũ hành thuộc Kim, là chủ của cung Tài Bạch. Cùng Thiên Phủ đồng cung là thêm thọ, biểu thị và thi hành Quyền ở khắp mười hai cung.
Mừng có Lộc Tồn cùng tham gia chính sự, có Thái Âm làm trợ giúp quyền, có Thiên Phủ Thiên Lương là phụ tá, là chủ của ti Tài Bạch Điền Trạch, chủ cự phú, có mừng có giận, có phúc có tai.
Nếu hội Hao Tù (Phá Liêm) ở cung Chấn thì phá tán tổ nghiệp, lại phát tài ở viễn quận. Nếu cùng Tham Lang đồng cung thì là người ích kỷ keo kiệt, cũng có thể hoạnh phát tài.
Nếu hội Thất Sát ở Hỏa cung thì quyết là do vợ mà tiền tài được phong phú giàu có. (QNB chú: cái từ “Hỏa cung” ở đây có lẽ không phải để ám chỉ các cung Tị Ngọ mà chính là ám chỉ cung Mão, chỗ đó là địa phận của sao Hỏa – Mars, cái tên gọi này sót lại từ các môn tiền thân của Tử Vi là Ngũ Tinh chiêm, Thất Chính Tứ Dư, Thập Bát Phi Tinh).
Cùng với Phá Quân đồng độ thì tiền tài đến rồi cũng thành không. Thêm nữa là nếu lâm vào trong nhị hạn thì chủ về thị phi phiền nhiễu.
Nếu như đứng riêng một mình ở đất của nhị hạn thì phát tài không nhỏ.
Hoặc tọa Mệnh cung chủ tiền tài cự phú, chính là Tài nhập Tài hương vi miếu địa vậy.
Cùng với Nguyệt và Ấm Phúc cùng tụ hay tam hợp thì làm đống lương chi khách (tức môn khách trụ cột cho người chức quyền nào đó).
Cùng Đào Hoa gặp Ấm thì tài lộc hoạnh phát. Gặp Không Vong thì vì (nữ) sắc mà tan nhà nát cửa.
Cùng Nhật đồng độ, được Quan tinh thủ chiếu, thì hợp với an Thân ở chỗ Thiên Phủ, không hợp gặp phải Liêm Trinh vì gặp sự khắc chế.
Cùng Phá Quân đông độ thì phá tổ có tang gia, cả đời lao lục vất vả, tất định là không thành công được.
Với Thiên Quý đồng cung đắc địa thì lấy cung đó làm chỗ tài phú.
Với Thất Sát Kình Dương tương hội tất sẽ hình thương mà mất mạng.
Tiểu hạn nếu mà gặp Hao Sát thì rước lấy quan tụng thị phi.
Thái Tuế đến hoặc xung ở vượng địa thì năm đó được hoạnh phát.
Gặp Liêm Trinh phùng Hao diệu, có cãi cọ trong hôn nhân.
Ở Tử Tức có khí lực không lạc hãm, được con cái có lực, gặp chế thì phản chyển thành hung.
Ở Thê Thiếp tụ cát tinh thì nhờ vợ phát tài, gặp hung thì vì vợ mà phá đãng gia đình. Sợ cùng Phá Quân đồng độ, lại thêm e sợ Không Vong.
Ở cung Tật Ách cùng Cự Môn Kình Đà đồng cung, cả đời thường xuyên dùng thuốc thang. Nếu gặp cung hạn cát tinh tụ tập thì hoạnh phát.
Ở Thiên Di cùng Thái Âm đồng độ hội Tham Lương thì bách phúc lai lâm. Có thể buôn bán lớn, nhân đó mà biệt gia ly tổ.
Nếu gặp sát tinh Dương Đà lại lâm vào hãm địa thì định là gặp giặc cướp, phản chuyển thành hao tán của cải.
Cùng với Phá Quân nhập thủy cung lại gặp thủy tinh Văn Khúc, cần phòng thủy ách, tai họa không nhỏ.
Ở Quan Lộc cung gặp cát diệu thì làm chức quan chủ tài phú, gặp Tham Lang thì làm quan tham ô, gặp hung tinh cư ở Hỏa cung vượng mà hạn đến đó thì mất chức rụng quan.
79. 5 Hỏi Thiên Đồng chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Thiên Đồng thuộc Thủy, là Nam đẩu, ti Phúc, là chủ quản của cung Phúc Đức. Lại nói: hóa khí là Phúc và rất mừng gặp các cát tinh, trợ phúc thêm tốt lành, là người liêm khiết, diện mạo và bẩm tính thanh kỳ, có cơ mưu và không kiêu ngạo.
Không sợ gặp Thất Sát xâm phạm, không e ngại các sát tinh cùng triền độ.
Nếu hạn mà gặp, lại có mệnh đắc địa, thì dù là ở khắp 12 cung thì nó vẫn ban phúc tốt đẹp, nếu không có phá cách thì nhất định là cát tường.
79. 6 Hỏi Liêm Trinh chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Liêm Trinh thuộc Hỏa, là Bắc đẩu đệ ngũ tinh. Tại đẩu thuộc ti phẩm cấp thứ bậc, tại Số thuộc ti quan quyền. Nếu không ở nơi miếu vượng mà gặp thêm Quan Phù thì vốn được viết là “hóa tù vi sát” (biến tù ra sát). Cư vào chỗ đó thì không thể giải được họa của nó, (hạn) gặp phải thì cũng chẳng thể lường được.
Chủ người có tâm tính dữ tợn hung hãn, ngông cuồng, chẳng quen theo lễ nghĩa gì cả.
Gặp Đế tọa chấp chưởng uy quyền, ngộ Lộc Tồn thì chủ phú quý, ngộ Văn Xương thì hảo lễ nhạc, ngộ sát diệu lại hiển về võ chức.
Tại Quan Lộc cung là Quan Tinh có uy quyền, gặp Kị đồng cung thì lao lục vất vả.
Tại Thân Mệnh thì là thứ đào hoa tinh, nếu cư vượng cung thì sẽ cờ bạc mê sắc dục mà dẫn đến tranh tụng kiện cáo (QNB chú: “vượng cung” ở đây ta nên hiểu giống như trong trường hợp câu “Tham hội vượng cung là số trộm cắp”, trong đó: vượng cung là Mệnh an ở chỗ Đế Vượng thuộc Vòng Tràng Sinh ẩn của các tam hợp tuổi. Đó là các cung Tý Ngọ Mão Dậu, lần lượt tương ứng với các tam hợp Thân-Tý-Thìn, Dần-Ngọ-Tuất, Hợi-Mão-Mùi, Tị-Dậu-Sửu) .
Cùng Cự Môn ở nơi hãm địa tất sẽ dính vào thị phi mà kéo nhau ra kiện cáo.
Cùng Quan Phù gặp tài tinh hội hợp thì hao tán, phá đãng tổ nghiệp.
Gặp Hình Kị thì tất sẽ không tránh được tai nạn đẫm máu. Ngộ Bạch Hổ thì khó thoát đòn roi.
Gặp Vũ Khúc nơi hãm hoặc đã bị quản chế thì e rằng dễ bị “mộc áp xà thương” (cây đè, rắn cắn, bị ngầm ám hại).
Gặp Đại Hao hãm địa thì đề phòng “đầu hà tự ải” (đâm đầu xuống nước mà táng mạng).
Đi với Phá Quân với Nhật Nguyệt thì chẳng tránh được bị tật ở mắt.
Hạn mà gặp như thế thì tai họa là khó có thể bài trừ, hóa giải được.
Chỉ hợp với vị trí của cung Quan lộc và Thân Mệnh. Gặp cát thì phúc được tăng cường, phùng hung thì tất sẽ chẳng hiền hòa gì đâu. Nếu ở vào các tha cung thì họa phúc khó lường.
79.7 Hỏi Thiên Phủ chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Thiên Phủ thuộc Thổ, là Nam đẩu đệ nhất tinh, chủ về Lệnh. Là chúa tể của Tài Bạch, tại đẩu là sao thuộc ti Phúc Quyền, tại số thì là thần của việc chấp chưởng Tài Bạch, Điền Trạch và Y Lộc.
Là trợ lý cho Đế tinh, tướng mạo thanh kỳ, bẩm tính ôn lương, đoan trang, t*o nhã. Gặp Lộc Tồn Vũ Khúc thì gia tài giàu có khổng lồ.
Đóng vào cung Điền Trạch và Tài Bạch thì coi là miếu nhạc, còn đóng vào cung Tướng Mạo (tức Phụ mẫu cung), Nô Bộc, Tật Ách thì coi như là hãm nhược cung (QNB chú: “miếu nhạc” và “hãm nhược” chỗ này là phép ẩn dụ, ý muốn nói là đa dụng/thiểu dụng hoặc là hay/dở… như trong đoạn của Tử Vi đã từ dùng phép ẩn dụ này, không nên hiểu như thông thường “miếu nhạc = sáng sủa”, “hãm nhược = thất huy, không có ánh sáng, mờ ám”).
Thân Mệnh mà gặp lại có được tướng tá nữa thì chủ phu thê tử tức không bị khuyết đâu. Nếu cát tinh tụ tập thì là then chốt của phú quý, luận định là vinh hoa hưng thịnh. Nếu gặp Không Vong thì đích thị là bị cô lập, không thể cứ đoán cứng nhắc cùng dạng như quy ước (bên trên) đâu nhé. Hội họp với Tử Vi Khoa Quyền Lộc thì phú quý song toàn.
79.8 Hỏi Thái Âm chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Thái Âm thuộc Thủy, là chủ của Điền Trạch, hóa khí là Phú, cùng với Nhật là phối ngẫu. Là nghi biểu của trời, có dụng theo thượng huyền và hạ huyền, phân biệt theo Hoàng Đạo Hắc Đạo, tròn hay khuyết, mà định ra sự miếu nhạc, lấy Mão Thìn Tị Ngọ là chỗ hãm, Dậu Tuất Hợi Tý làm cung viên đắc địa, Dần làm cửa bắt đầu xuất hiện, Mão làm chỗ tiềm ẩn phía đông (Dần vi sơ xuất chi môn, Mão vi đồng tiềm chi sở).
Chủ người thông minh tuấn tú, bẩm tính đoan trang, thanh nhã, dịu dàng, vẹn toàn cát lợi.
Thượng huyền là then chốt trọng yếu, Hạ huyền thì luận là giảm uy thế.
Nếu đối chiếu với chỗ của Thái Dương, như Nhật đến Mão Nguyệt đến Dậu thì đều là chỗ vượng, là căn bản của phú quý vậy.
Ghét Cự Môn đến trong triền độ, sợ Kình Đà chiếu vào.
Hoặc gặp Liêm Trinh xâm phạm, cũng như với Thất Sát tương xung, như thế thì e rằng cung viên không được đắc ý, nhất định luận là có thương tích, tàn tật, trừ phi là theo tăng đạo thì phản chuyển thành cát lành.
Với nam nhân coi là mẫu tinh chủ người mẹ, đồng thời là thê tú chủ người vợ, quyết họa phúc quan trọng, không thể sai lệch.
Mệnh tọa ở cung mà (Thái Âm) có ánh bạc quang huy rạng rỡ, thêm chư cát tinh đều hội tụ thì luận là được hưởng phúc, được hưởng tổ nghiệp.
Nếu như (Thái Âm) hãm địa thì tất sẽ bị mai một yếu kém về (công) danh.
Nếu ở Thượng Huyền, Hạ Huyền nhưng mà không gặp Cự Môn thì là tốt đẹp (QNB chú: Thái Âm làm thế nào mà gặp Cự Môn được? Độc giả lưu ý vậy!).
Tại Tài Bạch cung là miếu nhạc, có Vũ Khúc Lộc Tồn cùng hội, lại đắc Tả Hữu tướng tá thì chủ đại phú.
Nếu tại chỗ sinh vượng
Nếu (Thái Âm) ở cung an Thân, thì có mẹ nuôi, dì ghẻ, hoặc là bỏ nhà ly tổ.
Thân Mệnh (có Thái Âm) nếu thấy ác sát hội chiếu xung chiếu thì luận là bị thương hoặc tàn tật. Trừ phi theo tăng đạo thì lại phản chuyển thành được tốt lành. Lại như nếu cùng Văn Khúc đồng cư Thân Mệnh (có sát tinh xung chiếu như trên) thì nhất định sẽ là giới cửu lưu thuật sĩ.
(Thái Âm) Với nam chủ về người mẹ, lại cũng chủ về người vợ.
Nếu cùng với Phá Quân đồng cư, không thể vượng phúc, thăng trầm trăm bề, thành bại thất thường.
Nếu cùng với Hình Tù Sát hội thì chủ tiền mất người lìa xa, chung thân cô khắc.
Tại Huynh Đệ Nô Bộc cung là hãm, tại Điền Trạch là nhập miếu, cùng với Tả Hữu Lộc Tồn Phúc Ấm đồng cư thì được thử hưởng tổ nghiệp mà lại thịnh vượng, còn ở chỗ hãm địa thì tuy cát nhưng cũng có sự khiếm khuyết. Nếu như thêm ám diệu lâm đến, hình tinh giao hội, thì sản nghiệp có tổn hại, có sự chia lìa với mẹ. Các sát diệu với Liêm Trinh đừng nên xâm phạm, các lưu sát thái tuế chớ có giao hội kẻo chẳng lành.
Tại cung Tử Tức gặp Hình tinh, nếu có được sự chế hóa thì được tương sinh tương trợ, còn nếu bị khắc thì sẽ hao tổn mất con.
Tại cung Phu Thê thì với nam nhân là chủ thê tài, với nữ thì không luận, gặp Dương (tức Kình) Cự thì tất sẽ khắc vợ, nếu thêm Thái Tuế Lưu Sát tấu hợp thì đoán ngay được phúc họa.
Tại Tật Ách cung mà ngộ Đà La là mắt có tật, gặp Hỏa Linh là tai nạn, thấy Tham Lang Thất Sát thì cũng tổn hại cho mắt.
Tại Thiên Di đắc cát tụ thì làm thương lái mà sinh tiền tài. Cung an Thân gặp ở đó thì có mẹ kế.
Tại Quan Lộc đắc quang huy thì là phúc, nếu không có quang huy thì vô dụng. Gặp Xương Khúc thì thanh t*o tốt đẹp, tất luận là đỗ cao hiển đạt đăng khoa.
Tại Phúc Đức mà hãm thì hợp theo tăng đạo.
Tại Tướng Mạo (Phụ Mẫu cung), nếu như hãm địa thất huy mà lại gặp Bạch Hổ Thái Tuế thì chủ về mẹ có tai họa, vợ cũng cần phải cẩn thận đề phòng (tai họa)
79.9 Hỏi Tham Lang chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Tham Lang thuộc Bắc Đẩu, là thần của cung Tật Ách. Ngũ hành thuộc Thủy, hóa khí là Đào Hoa, là tiêu chuẩn đo lường và chính là thần chủ họa phúc. Tại Số thì ưa hòa nhã phóng túng. Ở người thì chủ thấp lùn, tính tình chủ quan, lòng nhiều tính toán ganh đua, luận định là gian trá man nhân, theo thụ học các thuật của thần tiên. Lại giỏi ngâm thơ vịnh nguyệt, phiêu đãng phong lưu, biến khéo thành vụng.
Nhập cung miếu nhạc ở Cấn vị, thì có thể là tốt lành nhưng cũng có thể là họa.
Hội Phá Quân thì mê hoa luyến tửu mà táng mạng, cùng với Lộc Tồn ám hợp Hao thì vì thế mà trở nên hư hoa, ngộ Liêm Trinh thì không thanh khiết, thấy Thất Sát hoặc kết phối (với người Thất Sát) thì bị hình khắc, bị hình phạt. Ngộ Kình Đà thì chủ có bệnh trĩ, phùng Hình Kị thì có sẹo hoặc lang ben, loang lổ trên da, nhị hạn mà gặp (như thế) thì họa không hề nhẹ chút nào.
(Tham Lang) Với Thất Sát cùng thủ ở Thân và Mệnh thì nam có thân thể của phường trộm cắp, nữ có thái độ của lũ vụng trộm (QNB chú: cái này có lẽ muốn nhấn mạnh về cái thần thái lén lút mà thôi). Chư cát có áp chế thì cũng không thể tạo thành phúc hậu được, còn nếu như mà gặp thêm bày hung sát tụ hội vào thì càng tàng ẩn cái gian của nó. Hư hoa chẳng thực tế gì cả, đối với người thì kết giao càng sâu đậm bao nhiêu, đến lúc về sau cũng giả dối bạc bẽo bấy nhiêu. Bởi thế mà nói: Thất Sát thủ Thân chung thị yểu, Tham Lang nhập miếu tất vi xướng, nghĩa là Thất Sát đóng ở cung an Thân thì chết non, Tham Lang nhập miếu tất sẽ là con hát, kỹ nữ (QNB chú: dịch nguyên văn chữ “nhập miếu”, nhưng tôi cho rằng chữ “miếu” này là không đúng, mà đúng ra phải là chữ “Mệnh”. Đã đề cập bàn luận nhiều lần ở tuvilyso về câu này rồi).
Nếu cùng với Phá Quân cư ở Thân Mệnh, lại thêm là ở chỗ vượng của tam hợp tuổi, có cả Mã hội ở tam hợp, thì nam giỏi uống rượu với cờ bạc du đãng, nữ thời cưới xin chẳng có mối mai gì sất, tâm tính trộm cắp dâm bôn, chẳng có phép tắc gì cả, nhẹ thì bỏ nhà theo trai, nặng thì tất làm kỹ nữ ca xướng.
Nếu cùng Vũ Khúc đồng độ thì xiểm nịnh gian tham, thường có tâm địa ích kỷ, cũng như chẳng có lòng cứu tế đối với người khác.
Với Liêm Trinh ở cùng thì nhất định sẽ gặp hình phạt ở chốn công đường, nơi cửa quan.
Sát mà hội cùng thì nhất định là đồ tể.
Kình Đà giao tinh, tất sẽ làm quỷ phong lưu.
Xương Khúc đồng độ, tất sẽ đa hư thiểu thực.
Với Thất Sát Nhật Nguyệt đồng triền thì nam nữ đều tà dâm hư hoa.
Cùng Cự Môn giao chiến thì thường chỉ có khẩu thiệt thị phi quan tụng.
Nếu phạm vào chỗ Đế tọa mà không có chế hóa thì là người vô ích.
(Tham Lang) Hãm địa phùng sinh thì lại thành ra điềm lành, dẫu nhà có phá tán đi chăng nữa thì cũng sẽ một thời gian phát tài là gây dựng lại được.
Chỉ duy hội với Hỏa Linh thì thường phú quý, đẹp ở Tài Bạch với Vũ Khúc Thái Âm cùng, nếu mà cuối cùng không tự hưng thịnh được thì tất là do bởi dâm dật. Tại Huynh Đệ, Tử Tức thì đều coi như là hãm địa. Tại Điền Trạch thì phá đãng tổ nghiệp, trước giàu sau nghèo. Vào Nô Bộc cung mà lại là miếu vượng thì tất sẽ vì nô bộc trong nhà mà phá tán. Ở Phu Thê Cung Tử Tức cung đều là không được đẹp, vào Tật Ách cung có Kình, Đà, Ám, Sát tinh giao hội thì mang bệnh tật bởi vì tửu sắc. Cung Thiên Di mà nếu như ở đất Hỏa (có Tham Lang), gặp Phá Quân với Ám, Sát tinh, lúc đến hạn gặp thêm các lưu niên tuế sát trùng điệp, thì tất sẽ chủ bị binh lửa chiến tranh, đạo tặc xâm phạm. Nói tóm lại là, dẫu nam hay nữ mà chẳng gặp được nó ở chỗ đắc địa thì sẽ không bao giờ được thấy cái tốt của nó.
79.10 Hỏi Cự Môn chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Cự Môn thuộc hành Kim Thủy. Là sao thứ hai thuộc Bắc Đẩu, âm tinh hóa khí là Ám. Tại trời thì thuộc ti phẩm vạn vật, tại số thì chấp chưởng thị phi, chủ về ám muội, nghi thị đa phi (ngờ vực cái đúng mà lại có nhiều cái sai), lường gạt trời đất, tiến thoái lưỡng nan. Tính của nó thì hướng mặt về đúng mà quay lưng với cái sai, với lục thân thì không hòa hợp, kết giao với người thì lúc đầu thiện về cuối lại bạc ác. Ở khắp 12 cung nếu như mà không lâm vào chỗ miếu nhạc thì bôn ba cực khổ, đến đâu thì họa ở đó.
Thủ Tài Bạch, Hợi Tý Sửu Dần là họa nhẹ nhàng sơ qua, có sự cạnh tranh.
Tại Thân Mệnh thì một đời chiêu chuốc khẩu thiệt thị phi.
Tại Huynh Đệ thì cốt nhục bất túc.
Tại Phu Thê chủ đối đầu, ngăn cách.
Ở Điền Trạch thì khiến phiêu lãng lưu lạc.
Thủ Nô Bộc thì kẻ dưới đều ngu tối ám muội.
Tại Tật Ách gặp Tù Kị thì chủ có lo ngại về bệnh tật ở mắt, thêm sát tinh lâm vào thì tàn tật.
Tại Thiên Di chủ chiêu chuốc thị phi.
Nhập Quan Lộc thì chủ cực hình đòn roi.
Lâm vào Tướng Mạo thì bị người phiền nhiễu.
Nếu như hội Thái Dương, có hung tinh đi kèm, thêm gặp Thất Sát, quyết đoán là bị sát thương.
Với Tham Lang đồng cung thì do thông gian mà sinh ra kết phối.
Gặp Đế Tòa, thì chế được tính của nó, gặp Lộc Tồn thì giải được cái hư hoa của nó, Tả Hữu cũng có thể vậy.
Gặp Dương Đà thì nam đạo tặc nữ kỹ xưỡng, Thân Mệnh không nên gặp.
Đối cung mà gặp Hỏa Linh, Bạch Hổ, không có Đế Lộc áp chế, nhất quyết là lấy vợ/chồng ở xa.
Tam hợp gặp sát vây chiếu, thì tất sẽ bị rắc rối với thủy ách.
Nó chính là sao của cô độc, là tinh của sự khắc lộc người khác. Trừ khi là tăng đạo hay cửu lưu thuật sĩ, nếu không thì khó mà tránh được tính kiêu ngạo, hao tổn tinh thần, hạn mà gặp hung diệu thì tai nạn không nhẹ.
79.11 Hỏi Thiên Tướng chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Thiên Tướng thuộc Thủy, là sao thuộc Nam đẩu, ti Tước hàm, là Phúc Thiện, hóa khí là Ấn, đích thị là quan lộc văn tinh, phù tá cho Đế tinh.
Nếu Thân Mệnh mà gặp thì ngôn ngữ thành thực, việc làm chẳng dối lừa. Thấy người gặp khó thì lương tâm động lòng trắc ẩn, thấy kẻ bạc ác thì tỏ cái chí khí bất bình.
Quan Lộc mà đắc thì sẽ hiển vinh, hội họp với Đế ở một chỗ thì tất sẽ thích tranh quyền.
Phù tá cho ánh sáng của Nhật Nguyệt, đồng thời hỏa giải cái ác của Liêm Trinh.
Thân Mệnh đắc thì vinh dự; Tử Tức đắc thì con cái thành đạt, ở khắp 12 cung đều là phúc tốt đẹp cát tường, không tùy xuôi theo ác, mà có thể biến chí và hoán cải cái ác cũng như kẻ bất nhân. Hạn mà gặp thì giàu có khó lường lắm. Thiên Tướng mà lâm vào chỗ sinh vượng, tuy không gặp Đế tinh, nếu đắc Tả Hữu thì tất chấp chưởng chức quyền uy mạnh mẽ lắm. Nếu cư vào chỗ nhàn nhược, cũng tạo tác điều cát lợi, nhị hạn mà gặp thì chủ phú quý.
79.12 Hỏi Thiên Lương chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Thiên Lương thuộc Thổ, là sao thuộc Nam đẩu, ti Thọ, hóa khí là Ấm, là Phúc Thọ, là chủ của Phụ Mẫu cung, ở người thì tính tình ngay thẳng lỗi lạc, ở Tướng Mạo thì nhân hậu ổn trọng, khiêm nhường, chính trực vô tư, vào việc thì quả quyết, che chở tạo phúc ấm cho bản thân cũng như con cháu họ hàng.
Gặp Xương Khúc ở Tài cung, gặp Thái Dương ở tam hợp Phúc Đức thì được thanh danh vẹn toàn mọi bề. Vinh hiển ở chức vị như vương thất, được gia phong hiến tặng.
Nếu gặp Hao diệu và thêm Thiên Cơ thì hợp theo tăng đạo thanh nhàn, cũng dễ được vua chúa tôn kính.
Hội với Tham Lang đồng độ thì loạn lễ nghĩa loạn cửa nhà.
Cư chỗ Nô Bộc, Tật Ách, Tướng Mạo thì luận là về tác phong có những động tác thừa thãi.
Thấy Liêm Trinh Hình Kị thì không phải lo lắng về tai ách, hình khắc, kích động; nếu gặp Hỏa Linh Hình Ám cũng chẳng sợ sự phiền nhiễu của chinh chiến. Thái Tuế xung vẫn được phúc, Bạch Hổ lâm cũng không ngại tai ương, Tấu Thư hội hợp thì vinh hiển ngoài dự kiến, Thanh Long động thì có văn thư đáng mừng tới, Tiểu Hao Đại Hao giao hội thì công cán chẳng thành, Bệnh Phù Quan Phù tương xâm cũng không sợ tai họa.
Nữ nhân có cát tinh nhập miếu thì vượng phu ích tử, Xương Khúc Tả Hữu phù trì thì được phong tặng.
Kình Đà Hỏa Kị xung phá thì tất sẽ chiêu thị phi không trong sạch, hợp với tăng đạo.
79.13 Hỏi Thất Sát chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Thất Sát thuộc Kim, là đại sát của Nam đẩu, là sao thứ năm vậy. Là thượng tướng trong các sao, là cô thần của trong thành bại. Tại đẩu thì thuộc ti quyền bính của các sao, chủ về phong hiến. Uy phong của nó được lấy làm anh linh của kim, tính khí của nó dường như rất lạnh lùng. Gặp Tử Vi thì hóa Quyền giáng phúc, ngộ Hỏa Linh thì uy sát của nó càng dai dẳng. Gặp hung diệu ở Sinh hương thì xác định là đồ tể, hội Xương Khúc chỗ yếu địa thì tính tình tham lam ng* d*t lại còn ngông nghênh. Mệnh sát gặp hung ở tam phương, Thất Sát tinh tại tiểu hạn thì chủ chết trận.
Hội Cự Nhật ở chỗ Đế Vượng và Không Vong, chịu hình pháp không nhẹ, tước lộc rơi rụng.
Nhị hạn hội Thân Mệnh, sát tam hợp đối xung, dẫu có phúc cũng gặp sự chẳng lành.
Bí văn nói, “Thất Sát cư hãm địa, trầm ngâm phúc bất sinh” chính là vì thế.
Nhị chủ gặp nó, luận định là phải trải qua gian khổ, nhị hạn mà gặp thì xảy ra tai ương phá bại.
Gặp Đế Lộc có thể cứu giải được, gặp lưu sát thì càng hung.
Thủ nơi Thân Mệnh thì vào việc không dứt khoát, mừng giận thất thường.
Tả Hữu Xương Khúc Thiên Phủ nhập miếu củng chiếu thì chấp chưởng quyền sinh quyền sát, phú quý xuất chúng.
Nếu mà Tứ Sát Kị tinh xung phá thì lại là người bình thường có tay nghề khéo léo mà thôi, còn như hãm địa nữa thì thành ra bị tàn tật.
Vào nữ mệnh lại ở nơi vượng địa thì chí khí còn hơn cả đấng trượng phu, có của cải quyền lực khiến cho người khác khâm phục. Nếu có Tứ Sát xung phá thì hình khắc, không trong sạch, hợp với tăng đạo, mà thêm sát tinh vây chiếu thì phiêu đãng phong trần, có đi tu thì cũng hoàn tục.
79.14 Hỏi Phá Quân chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Phá Quân thuộc Thủy, là sao thứ bảy của Bắc Đẩu, là thần quản các ti Phu Thê, Tử Tức, Nô Bộc.
Tại trời là sát khí, tại số là hao tinh, vì thế mà hóa khí là Hao.
Chủ nhân hung bạo giảo trá, tính gian giảo, khó hòa hợp với người khác. Ngược đãi và coi lục thân như kẻ thù, đối xử với cốt nhục vô tình vô nghĩa.
Những người tuổi Quý tuổi Giáp thì hợp cách chủ hưởng phú quý.
Hãm địa mà thêm sát tinh xung phá thì khéo tay nghề nhưng dễ tàn tật, khó giữ tổ nghiệp, hợp theo tăng đạo. Nữ nhân mà bị xung phá như thế thì dâm đãng vô sỉ.
Sao này mà ở cùng với Tử Vi thì khiến cho (Tử Vi) mất đi uy quyền; gặp Thiên Phủ thì trở thành gian trá; hội Thiên Cơ thì trộm cắp đạo tặc. Cùng Liêm Trinh Hỏa Linh đồng độ thì nhất quyết sẽ khởi tụng thị phi kiện cáo; cùng Cự Môn đồng độ tắc khẩu thiệt tranh đấu; cùng Hình Kị đồng độ thì cả đời tàn tật. Cùng Vũ Khúc nhập vào Tài cung thì làm đằng Đông cũng hỏng mà làm đằng Tây cũng bại; với Văn Xương thủ Mệnh thì một đời là kẻ sĩ nghèo túng. Gặp chư hung kết bè đảng thì phá bại, ngộ nơi hãm địa thì họa của chúng không hề nhỏ.
Duy chỉ có Thiên Lương có thể chế được cái ác của nó, Thiên Lộc có thể giải được cái cuồng của nó.
Nếu gặp lưu niên sát tinh giao hội thì sản nghiệp gia đình bị phá hỏng, mất hết.
Cùng Văn Khúc nhập vào Thủy vực thì tàn tật, chủ ly hương.
Ngộ Văn Xương ở Chấn cung, gặp cát tinh thì có thể được quý.
Nếu mà nữ mệnh gặp phải là kết hôn mà chẳng có mối mai gì sất, phiêu đãng lưu lạc, chôn vùi tiết hạnh.
Phàm kẻ có Thân Mệnh cư Tý Ngọ, có Tham Sát củng chiếu thì uy danh chấn động biên thùy. Hoặc cùng Vũ Khúc cư Tị cung có Tham Lang củng cũng được ở nơi đài các. Nhưng cần xem ác tinh như thế nào! Người tuổi Canh tuổi Quý thì nhập cách nhưng mà đến lúc già cũng chẳng toàn mĩ vậy.
Tại Thân Mệnh hãm địa thì quên tổ bỏ tông; tại Huynh Đệ thì anh em so kè tính toán; tại Phu Thê thì bất chính, chủ nhân nhân trắc trở, tới lui khó toàn; tại Tử Tức là trước thời tổn thất sau thời mới có được; tại Tài Bạch như nước sôi dội vào tuyết (ý nói tan hết cả); tại Tật Ách gây ra lưng gù chân khuềnh; tại Thiên Di chủ bôn ba vô lực; tại Nô Bộc thì bị kẻ dưới chê bai báng bổ oán trách rồi bỏ đi; tại Quan Lộc thì chủ thanh bần; tại Điền Trạch mà hãm thì phá đãng cơ nghiệp tổ tông; tại Phúc Đức thì lắm tai nhiều nạn; tại Phụ mẫu thì có hình khắc, có phá tướng.
79.15 Hỏi Văn Xương chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Văn Xương thuộc Kim, là sao thứ sáu của Nam đẩu. Thủ Thân Mệnh chủ nhân u nhàn nho nhã, khôi ngô thanh tú, thông hiểu và uyên bác về văn chương ký sự, có tài cơ biến lạ thường, một lần thi cử là thành danh liền mà khoác lên mình tấm lụa đào áo tím (ý nói quan phục cao cấp), được phúc thọ song toàn.
Vượng ở Tị cung, hỉ cư ở Thìn Ngọ kiêm Dần Mão, mi mắt phân minh, tướng mạo thanh kỳ, thuộc kiểu người Kim Thủy, trước khó sau dễ, trung niên có thanh danh.
Gặp Thái Dương Ấm Lộc tụ thì “lô truyền đệ nhất danh” (loa xướng tên đầu tiên – ý nói đỗ đạt cao).
79.16 Hỏi Văn Khúc chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Văn Khúc thuộc Thủy, là sao thứ tư của Bắc Đẩu, chủ khoa giáp văn chương. Cùng Văn Xương hiệp đồng thì số tốt đẹp vô cùng.
Tại Thân Mệnh thì khiến cho thành công khoa bảng, đào hoa ngao du, một lần là vượt vũ môn.
Cư Tị Dậu Sửu cung là quan cư hầu bá.
Vũ Tham tam hợp hoặc đồng viên là tướng tướng chi cách, gặp Văn Xương cũng dĩ nhiên là giống thế.
Nếu mà hãm cung Ngọ Tuất, có Cự Môn Kình Đà xung phá thì táng mệnh yểu chiết, vốn rất đáng lo ngại về các tai nạn thủy hỏa.
Nếu ở Hợi Mão Mùi là vượng địa, cùng Thiên Lương Thiên Tướng hội họp thì chủ thông minh bác học, sát xung phá thì hợp với tăng đạo.
Nếu nữ Mệnh gặp thì thanh tú, thông minh, chủ quý, nhưng nếu hãm địa có thủy tinh thì chủ vừa dâm vừa tiện.
79.17 Hỏi lưu niên Xương Khúc chủ định thế nào?
Đáp viết:
Mệnh phùng lưu niên Xương Khúc, là khoa danh khoa giáp. Đại tiểu nhị hạn mà gặp, thêm tam hợp củng chiếu Thái Dương, lại vừa có lưu niên Lộc; Tiểu hạn Thái Tuế gặp Khôi Việt, Tả Hữu, Thai Tọa, Nhật Nguyệt, Khoa Quyền Lộc Mã tam phương củng chiếu thì nhất định luận đoán là đỗ đạt cực cao mà chẳng cần nghi ngại gì. Cũng đúng ngần ấy sao là đại cát ở tam phương thì làm thủ khoa trong năm ấy.
Nhưng mà không phải là các sao ấy lúc nào cũng đại cát, chỉ lấy lưu niên khoa giáp làm chủ, như Mệnh hạn mà gặp có cát diệu thì sẽ đỗ cao, tại Tị Dậu là đắc địa, chẳng phú cũng quý, nhưng lại e rằng không được bền lâu.
79.18 Hỏi Tả Phụ chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Tả Phụ thuộc Thổ, phụ tá cho đế tinh, thủ Thân Mệnh ở khắp các cung đều giáng phúc.
Chủ nhân hình tướng diện mạo đôn hậu, khẳng khái phong lưu. Nếu tam phương đắc Tử Phủ Lộc Quyền tam hợp xung chiếu thì chủ văn võ đại quý.
Hỏa Kị xung phá thì tuy phú quý nhưng không được lâu bền. Theo tăng đạo thì thanh nhàn.
Nữ nhân ổn trọng, hiền đức, hiểu biết rộng, ở chỗ vượng địa thì được phong tặng. Hỏa Kị mà xung phá thì đoán là trung cục.
79.19 Hỏi Hữu Bật chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Hữu Bật thuộc Thủy là sao phụ tá của Đế tinh, thủ Thân Mệnh thì tinh thông về văn vẻ, hội họa. Có Tử Phủ và các cát tinh đồng viên thì Tài Quan song mỹ, văn võ song toàn.
Kình Đà Hỏa Kị xung phá thì đoán là hạ cục.
Vào nữ nhân có tính hiền lương, thanh cao đoan trang hiền thục.
Tứ Sát xung phá thì cũng không đến nỗi hạ tiện, theo tăng đạo được thanh nhàn.
79.20 Hỏi Thiên Khôi Thiên Việt chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Khôi Việt thuộc Hỏa, tức Thiên Ất Quý Nhân, là sao của ti Khoa bảng, khí tượng đường đường, thanh danh sáng sủa, liêm khiết thanh bạch mà có uy nghi.
Tại nhân Mệnh tọa quý hướng quý, hoặc đắc Tả Hữu cùng cát tinh hội tụ thì chẳng quý cũng giàu sang.
Huống hồ hai sao lại còn vừa là thần của thượng giới chủ về hòa hợp, trong trường hợp Khôi lâm Mệnh còn Việt thủ Thân hoặc luân phiên tương thủ. Nếu được thêm Tử Phủ, Nhật Nguyệt, Xương Khúc, Tả Hữu, Quyền Lộc tương ngộ, tuổi trẻ chắc chắn gặp được vợ đẹp. Lúc gặp phải đại nạn thì tất sẽ có quý nhân phù trợ thành tựu, kẻ tiểu nhân không được thế đâu nhé, nhưng đều là không phải gặp hung hiểm.
Hạn gặp được thì chủ nữ thêm hỉ tín, sinh con trai thì tuấn nhã, nhập học công danh có thành tựu. Sinh con gái thì tất sẽ có dung mạo đoan trang, xuất chúng siêu quần; nếu sau bốn mươi mà gặp mộ khố thì lại không đoán giống thế được, có hung nhưng không đến nỗi tai nạn.
Người làm quang thì thường có uy võ, thanh danh vang xa, Theo tăng đạo thì hưởng phúc, cùng với người hòa hợp, không hề hạ tiện.
Nữ nhân mà có thêm nhiều cát tinh hội tụ thì tất sẽ là vợ của bực tể tướng, thượng phụ, luận là mệnh phụ phu nhân. Nếu gia thêm ác sát thì cũng được phú quý, nhưng mà không miễn được tâm tình có sự dâm dật.
79.21 Hỏi Lộc Tồn chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Lộc Tồn thuộc Thổ, là sao thứ ba của Bắc đẩu, ti Tước Lộc, là sao của “chân nhân” (QNB chú: là danh xưng cao quý của người chân thực hay vị tu hành đắc đạo).
Chủ người được quan quý tước lộc, chấp chưởng thọ mạng của con người. Gặp Đế tinh phù tá mà thi hành quyền, với Nhật Nguyệt mà có nó thì được tăng thêm quang huy. Thiên Phủ Vũ Khúc có nó thì thêm chức, Thiên Lương Thiên Đồng gặp thì thêm nhiều tốt lành.
Tại khắp các cung thì chỉ có ở Thân Mệnh, Điền Trạch, Tài Bạch là trọng yếu, chủ về giàu có. Cư vào Thiên Di thì cũng đẹp.
Với Đế tinh thủ Quan Lộc cung thì hợp cho phẩm hàm tước vị của con cháu.
Nếu mà độc thủ ở Mệnh không có cát hóa thì chỉ làm kẻ nô tài trông coi kho quỹ cho người ta mà thôi.
Lộc Tồn mà gặp cát tinh thì mới phô diễn được cái uy quyền cũng như tác dụng của nó, nếu mà gặp ác bại tinh thì bị thui chột khả năng. Vô cùng sợ lạc hãm chỗ Không Vong vì không thể tác phúc, lại thêm Hỏa Linh Không Kiếp thì nhờ vào khéo tay nghề mà yên thân. Tước lộc (của Lộc Tồn) phải đang đắc thế thì mới được hưởng.
Thủ vào Thân Mệnh thì chủ nhân uy tín, chính trực, nhân hậu từ tâm, hiểu biết rộng lớn.
Nữ nhân mà đắc thì thanh cao, hiền thục, khéo léo, tài năng, có chí khí như người quân tử.
Tử Phủ Liêm cùng hội hợp, có thêm Lộc Tồn là thượng cục.
Đại để thì sao này ở khắp các cung đều có thể giáng phúc mà tiêu giải tai nạn. Nhưng Lộc Tồn không cư Tứ mộ chi địa, cái chỗ mà Thìn Tuất là Khôi Cương (QNB chú: tức ám chỉ Thiên Cương và Hà Khôi) còn Sửu Mùi là Quý Nhân, cho nên Lộc tránh không cư.
79.22 Hỏi Thiên Mã chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Thiên Mã là sao Dịch Mã của thượng giới. Khắp các cung đều có chế hóa, như Thân Mệnh lâm vào vị trí của nó là dịch mã (có sự chuyển động, di chuyển). Mừng được Lộc Tồn, Tử Phủ, Xương Khúc thủ chiếu vì được cát lành.
Như đại tiểu hạn mà lâm vào, lại gặp thêm Lộc Tồn, Tử Phủ, Lưu Xương thì tất sẽ có lợi lộc.
Nếu như cùng Lộc Tồn đồng cung gọi là “Lộc Mã giao trì”, lại viết “chiết tiên Mã” (折鞭馬 – ngựa chạy nhanh dường như lúc quất gãy cả roi).
Lại nói cùng Tử Phủ đồng cung gọi là “phù dư Mã” (扶轝馬 – ngựa kéo xe vàng của vua).
Cùng Hình Sát đồng cung gọi là “Phụ thi Mã” (負尸馬 – ngựa chở xác chết).
Cùng Hỏa Tinh đồng cung gọi là “chiến Mã” (ngựa chiến).
Cùng Nhật, Nguyệt đồng cung gọi là “thư hùng Mã” (雌雄馬 – ngựa sống mái).
Gặp Không Vong gọi là “tử Mã” “vong Mã” (ngựa chết toi).
Ở chỗ Tuyệt Tử gọi là “tử Mã”.
Gặp Đà La gọi là “chiết túc Mã” (折足馬 – ngựa què chân).
Phạm vào những cách như trên đây, thì đều chủ tai nạn bệnh tật, lưu niên mà gặp phải thì cứ theo như thế mà đoán (QNB chú: tuy nói là “những cách trên đây”, nhưng có lẽ nên trừ ra cách “Lộc Mã giao trì” và cách “Phù dư Mã” vì gặp 2 cách ấy mà nói là chủ tai nạn thì khó mà dám đoán theo như vậy. Độc giả lưu ý!).
79.23 Hỏi Hóa Lộc chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Lộc là thần của phúc đức. Thủ ở vị trí của Thân Mệnh Quan Lộc mà gặp được Khoa Quyền là tất sẽ làm tới chức quan đại thần.
Tiểu hạn mà gặp thì chủ tăng tiến tài lộc, là điềm mừng về việc đỗ đạt, gia nhập vào quan trường.
Đại hạn mười năm (mà gặp) thì đoán được cát lợi vui vẻ mà không cần nghi hoặc.
Nếu ác diệu lâm vào hợp cùng với Kình Đà Hỏa Kị xung chiếu thì cũng không gây tổn hại.
Nữ nhân mà có Hóa Lộc, được cát tinh củng chiếu thì làm mệnh phụ phu nhân, nhị hạn mà gặp thì trong uy phong mà ngoài thì nghiêm cẩn, nếu có sát tinh tấu hợp thì lại thành ra bình thường.
79.24 Hỏi Hóa Quyền chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Quyền tinh là thần chấp chưởng việc phán quyết sinh sát. Thủ nơi Thân Mệnh mà gặp Khoa Lộc thì xuất tướng nhập tướng (oai phong lẫm liệt). Nếu Quyền gặp Khoa thì tất đoán định là văn chương quán thế, ai ai cũng khâm phục ngưỡng mộ.
Tiểu hạn mà tương phù thì không có gì là không tốt. Đại hạn mười năm tất nhiên cũng được hanh thông toại chí.
Nếu như gặp Kình Đà Hao Sứ Kiếp Không thì nghe lời sàm tấu, theo lời gièm pha mà tự chuốc lấy buồn phiền, gặp phải quan tai khẩu thiệt, bị châm biếm chỉ trích.
Nữ nhân mà có Hóa Quyền thì trong ngoài đều được thỏa chí cân xứng, có thể làm mệnh phụ phu nhân.
Theo tăng đạo gặp thì có danh hiệu, chấp chưởng cả môn phái.
79.25 Hỏi Hóa Khoa chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Khoa tinh là thí sinh ứng tuyển ở thượng giới, là sao chủ chấp chưởng văn thơ họa.
Thủ ở nơi Thân Mệnh mà gặp Quyền Lộc thì quan quý tới mức làm tể tướng trọng thần. Nếu như gặp ác diệu thì cũng vẫn được là văn chương tú sĩ, có thể làm thày giảng dạy cho những người tài.
Nữ Mệnh có thêm cát tinh củng chiếu thì chủ được phong tặng. Dẫu có tứ sát xung phá thì cũng vẫn được phú quý. Cùng với các văn tinh khoa tinh khác củng chiếu xung, thì cũng luận tương tự như thế.
79.26 Hỏi Hóa Kị chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Kị là thần quản nhiều thứ. Thủ ở nơi Thân Mệnh thì một đời không được thuận lợi.
Tiểu hạn mà gặp thì một năm ấy không được no đủ, đại hạn mười năm mà gặp thì hối hận tiếc nuối. Nhị hạn có Thái Tuế giao lâm thì quyết đoán là long đong vất vả.
Văn nhân mà gặp thì không bền, võ nhân mà gặp thì dễ có quan tai khẩu thiệt khó phòng. Dẫu có là kẻ thương nhân, người làm kỹ nghệ thì cùng đều chẳng được lợi gì.
Nếu hội Tử Phủ, Xương, Khúc, Tả Hữu, Khoa Quyền Lộc, với Kị đồng cung thì phú quý. Nhưng lại vừa có thêm cả tứ sát cùng chiếu thì phát tài như cũng chẳng bền, công danh thì lại khó thành tựu.
Nếu như chỉ đơn thuần Kị gặp tứ sát, hao, sứ, kiếp không thì chủ bôn ba lưu lạc, có đới tật. Tăng đạo mà gặp thì cũng dễ hoàn tục. Nữ nhân gặp thì cuộc đời nghèo và yểu thọ.
Nếu như Thái Dương tại Dần Mão Thìn Tị mà Hóa Kị, hay là như Thái Âm tại Dậu Tuất Hợi Tý mà Hóa Kị thì đều luận ngược lại là phúc.
Ngoài ra chư tinh hóa Kị, cần xét đoán ngũ kỹ về ngũ hành do chúng không giống nhau, như Liêm Trinh tại Hợi hóa Kị chính là hỏa nhập thủy hương, lại gặp người mệnh Thủy thì Kị không gây hại.
79.27 Hỏi Địa Kiếp chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Địa Kiếp chính là thần của cướp bóc giết chóc, thủ vào Thân Mệnh thì tác sự sơ cuồng, không làm theo con đường chính đạo.
Nhị hạn mà gặp, hội Tử Phủ Tả Hữu Khôi Việt tương trợ cũng cần phòng kẻo có tổn thất.
Nếu như Tứ Sát Không Hao Thương Sứ cùng gặp thì tiền mất người ly tán. Nữ như mà gặp phải như vậy thì cần lo lắng lúc mang thai, cần đề phòng gặp sản nạn.
79.28 Hỏi Địa Không chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Địa Không chính là thần của Không Vong, thủ nơi Thân Mệnh thì tác sự tiến thoái, thành bại đa đoan. Nếu Thái Tuế nhị hạn mà gặp, không có cát diệu thủ chiếu, chủ tai hối đa đoan, chủ xuất gia. Nếu nhập miếu thì lại cát lợi.
Kiếp Không nhị tinh thủ Mệnh, ngộ cát thì cát lợi, gặp hung thì hung hiểm, thêm tứ sát xung chiếu thì nhẹ sẽ là kẻ hạ tiện còn nặng thì mất người mất gia súc, tăng đạo bất chính, nữ nhân làm tì thiếp, hình khắc cô độc. Đại để hai sao này đều không nên gặp, chủ phá tài. Nhị hạn mà gặp tất sẽ hung.
79.30 Hỏi Thiên Thương, Thiên Sứ chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Thiên Thương là thần của hư hao ở trên trời, Thiên Sứ là thần sứ giả của nhà trời. Thái tuế nhị hạn mà gặp thì chớ hỏi tại sao lại vào địa phủ (toi mạng). Chỉ cần nhiều cát tinh tụ hợp thì còn phúc vì họa của chúng cũng nhẹ thôi, nếu như mà không có cát tinh lại gặp phải Cự Môn, Kình Đà, Linh Hỏa, Hóa Kị, Thiên Cơ, thì năm đó tất sẽ chủ bị khẩu thiệt quan tai, tang vong, phá bại.
79.31. Hỏi Dương Nhận chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Dương Nhận thuộc Bắc đẩu trợ tinh. Thủ ở Thân Mệnh thì tính tình thô lỗ, hành vi nóng nảy, cô đơn, coi người thân như là kẻ sơ, phản ơn thành oán.
Nhập miếu thì tính cương trực, quả quyết, cơ mưu và dũng mãnh, chủ về quyền quý.
Người sinh phương Bắc là phúc, người tuổi Tứ Mộ thì không kị.
(Kình Dương) cư ở Mão Dậu thì tác họa, dấy lên tai ương, cực kỳ hình khắc.
Người tuổi Giáp và người tuổi Mậu tất sẽ có hung họa. Dẫu phú quý cũng không bền và cũng chẳng được trọn vẹn/trọn đời lương thiện. Nếu mà lại là người thuộc giới cửu lưu hay công nghệ thì chăm chỉ và tinh tế. Thêm Hỏa Kị Kiếp Không xung phá thì tàn tật, ly tổ, hình khắc với lục thân.
Nữ nhân có Kình Dương nhập miếu mà gặp cát tinh thì là thượng cục, gặp nhiều Sát Hao xung phá thì chủ hình khắc là hạ cục.
79.32 Hỏi Đà La chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Đà La thuộc Bắc đẩu trợ tinh. Thủ ở Thân Mệnh thì tâm tưởng và hành vi đều bất chính, thường xuyên khóc thầm, tính tình cương mãnh, vào việc thì tiến thoái bất nhất. Chợt thành chợt phá, phiêu đãng bất định.
(Đà La) Cùng với Tham Lang đồng độ thì vì tửu sắc mà mang phải bệnh tật, cùng với Hỏa Linh cùng một chỗ thì bị ghẻ lở, bị bệnh ôn dịch. Cư vào cung Tật Ách là có ám tật triền miên.
Những người tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi được phúc, tại nơi miếu địa thì luận là được cả tiền tài lẫn quan vị, đối với văn nhân thì không được lâu bền nhưng với võ nhân thì một bước lên mây. Nếu mà cư ở chỗ hãm địa thêm sát tinh thì hình khắc và chiêu chuốc hung họa, mang thêm họ khác thì được thọ lâu hơn (QNB chú: nguyên văn là “二姓延生 – nhị tính diên sinh”, nghĩa là có 2 họ, là làm con nuôi nhà khác thì sinh mệnh được kéo dài), nữ nhân gặp phải thì hình khắc hạ tiện.
79.33 Hỏi Dương Đà chủ định như thế nào
Đáp viết:
Kình Dương, Đà La là hai sao thuộc Hỏa – Kim, là phù tá tinh của Bắc Đẩu, tại Đẩu thuộc ti Tấu, tại Số thì chủ hung ách.
Rất e ngại phải lâm vào ba cung là Huynh Đệ, Điền Trạch và Phụ Mẫu. Kị tam hợp lâm vào Thân Mệnh, hội hợp Xương Khúc Tả Hữu thì có nốt ruồi chỗ kín và cả chỗ có thể thấy được.
Thấy Nhật Nguyệt thì nữ khắc chồng, nam khắc vợ, là hung thần của các cung.
79.34 Hỏi Hỏa Tinh chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Hỏa tinh đại sát tướng,
Nam đẩu hiệu sát thần,
Nhược chủ thân mệnh vị,
Chư cung bất khả lâm,
Tính khí diệc trầm độc,
Cương cường xuất chúng nhân,
Mao phát đa dị loại,
Thần xỉ hữu thương ngân,
Cánh dữ dương đà hội,
Cưỡng bảo tất tai truân,
Quá phòng xuất ngoại dưỡng,
Nhị tính khả duyên sanh,
Thử tinh đông nam lợi,
Bất lợi tây bắc sanh,
Nhược đắc tham lang hội,
Vượng địa quý vô luân,
Phong hầu cư thượng tướng,
Huân nghiệp trứ biên đình,
Tam phương vô sát phá,
Trung niên hậu thủy hưng,
Tăng đạo đa phiêu đãng,
Bất thủ quy giới tâm,
Nữ nhân vượng địa khiết,
Hãm địa chủ tà dâm,
Hình phu hựu khắc tử,
Hạ tiện lao lục nhân.
(Gặp Hỏa Tinh đại sát tướng
Nam đẩu hiệu sát thần
Nếu chủ Thân Mệnh vị
Các cung chẳng thể lâm
Tính khí cũng trầm độc
Cương cường xuất chúng nhân
Lông tóc nhiều loại lạ
Răng môi có tổn thương
Thêm Kình Đà cùng hội
Thơ ấu tất tai truân
Rời nhà người ngoài dưỡng
Mang hai họ thì thọ
Người Đông Nam thì lợi
Bất lợi Tây Bắc nhân
Nếu cùng Tham Lang hội
Miếu vượng quý vô ngần
Phong hầu cư thượng tướng
Nổi danh khắp biên đình
Tam phương vô sát phá
Trung niên được hưng thịnh
Tăng đạo nhiều phiêu lãng
Chẳng thủ quy giới luật
Vượng, nữ nhân thanh khiết
Hãm, tất chủ tà dâm
Hình phu và khắc tử
Hạ tiện cực khổ thân).
79.35 Hỏi Linh Tinh chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Đại sát linh tinh tướng,
Nam đẩu vi tòng thần,
Trị nhân thân mệnh giả,
Tính cách diệc trầm ngâm,
Hình mạo đa dị loại,
Uy thế hữu thanh danh,
Nhược dữ tham lang hội,
Chỉ nhật lập biên đình,
Miếu địa tài quan quý,
Hãm địa chủ bần cùng,
Dương đà nhược tương thấu,
Kì hình đại bất thanh,
Cô đơn tịnh khi tổ,
Tàn thương đới tật nhân,
Tăng đạo đa phiêu đãng,
Hoàn tục định vô luân,
Nữ nhân vô cát diệu,
Hình khắc thiểu lục thân,
Chung thân bất trinh khiết,
Thọ yểu nhưng khốn bần,
Thử tinh đại sát tướng,
Kì ác bất khả cấm,
Nhất sanh hữu hung họa,
Tụ thực vi hư tình,
Thất sát chủ trận vong,
Phá quân tài ốc khuynh,
Liêm tú dương hình hội,
Kiếp không chủ đao binh,
Hoặc ngộ tham lang túc,
Quan lộc diệc bất ninh,
Nhược phùng cư vượng địa,
Phú quý bất khả luận.
(Đại sát Linh Tinh tướng
Nam đẩu là tòng thần
Gặp ở nơi Thân Mệnh
Tính cách cũng trầm ngâm
Hình mạo cũng quái lạ
Uy thế có thanh danh
Nếu cùng Tham lang hội
Trỏ về hướng biên đình
Miếu địa tài quan quý
Hãm địa chủ cô bần
Kình Đà mà tấu hợp
Hình dáng thô xấu ghê
Cô đơn lại ly tổ
Tàn hại đới tật nhân
Tăng đạo nhiều phiêu lãng
Đoán hoàn tục chớ nghi
Nữ nhân vô cát diệu
Hình khắc mất lục thân
Chung thân chẳng trinh khiết
Vừa yểu vừa nghèo khốn
Sao này đại sát tướng
Ác của nó khó ngăn
Một đời có hung họa
Muốn giàu rất khó khăn
Thất sát chủ trận vong
Phá Quân gia cảnh bại
Liêm Trinh Kình Hình hội
Kiếp Không chủ đao binh
Hoặc hội Tham Lang tú
Quan lộc cũng chẳng yên
Nếu mà cư miếu vượng
Phú quý khó nói hết).
79.36 Hỏi Dương Đà Hỏa Linh chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Hỏa linh đà la kim,
Kình dương hình kị quyết,
Nhất danh mã tảo tinh,
Hựu danh đoản thọ sát,
Quân tử thất kì quyền,
Tiểu nhân phạm hình pháp,
Cô độc khắc lục thân,
Tai họa thường bất hiết,
Yêu túc thần xỉ thương,
Lao lục đa kiển bác,
Phá tương hựu lao tâm,
Khất cái điền câu hác,
Vũ khúc tinh tham lang,
Nhất thế chiêu hung ác,
Tật ách nhược phùng chi,
Tứ thì bất li tật,
Chích nghi sơn tự tăng,
Kim cốc thường an nhạc.
(Hỏa Linh, Đà La kim
Kình Dương, Hình Kị ấy
Là sao chủ tảo phạt
Lại là đoản thọ sát
Khiến quân tử mất quyền
Tiểu nhân phạm hình pháp
Cô độc khắc lục thân
Họa tai không ngưng nghỉ
Hại chân, lưng, môi, răng
Trục trặc lắm lao lực
Phá tướng lại lao tâm
Ăn m*y nơi mương rãnh
Cùng Vũ Khúc Tham Lang
Một đời chiêu hung ác
Tật ách mà gặp phải
Cả đời chẳng được khỏe
Chỉ hợp theo tăng đạo
An vui hưởng thóc vàng).
79.37 Hỏi Thiên Hình chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Thiên Hình thủ Mệnh Thân thì không là tăng đạo thì nhất định sẽ cô đơn hình khắc, không nghèo thì cũng yểu tử. Phụ Mẫu Huynh Đệ đều không được toàn vẹn, nhị hạn mà gặp thì chủ xuất gia, dính vào pháp luật, lao ngục, mất tiền. Khi nhập miếu thì lại tốt lành.
79.38 Hỏi Thiên Diêu chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Thiên Diêu thuộc Thủy, thủ Thân Mệnh thì tâm tính âm độc, đa nghi lo sợ, nhan sắc đẹp, phong lưu lắm tì thiếp, chủ dâm dật.
Nhập miếu vượng thì chủ phú quý lại có lắm người hầu hạ, cư ở Hợi có học thức.
Hội ác tinh thì phá gia bại sản, vì sắc dục mà phạm vào hình pháp. Lục hợp trùng phùng thì thiếu niên yểu chiết.
Nếu lâm hạn có Thiên Diêu thì vẫy người gọi vào thành hôn mà chẳng có mai mối gì cả (QNB chú: ý nói dâm tính mà chẳng tuân theo gia phép lễ nghĩa gì cả).
Nếu có Tử Vi và cát tinh thêm vào nữa thì cương nhu tương hợp nên chủ “phong t*o” (thường quấy nhiễu, phóng túng hoặc bị bệnh phong hàn quấy nhiễu), thêm Hồng Loan thì càng dâm, thêm Kình Hình thì chủ yểu vong.
79.39 Hỏi Thiên Khốc chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Thiên Khốc là ác diệu, lâm vào Thân Mệnh là rất bất thường, lâm vào trong cung Phụ Mẫu thì phá đãng bán cả vườn tược cửa nhà.
Nếu ở Thân Mệnh hãm thì khổ cùng cực, cô độc, lại bị hình thương. Lục thân đều không được đầy đủ, lúc nào cũng phiền não. Mưu sự chẳng thành tựu, tâm sự luôn dồn nén, gấp gáp.
Ở Sửu Mão Thân cung thì tốt lành, gặp Lộc thì được hiển danh.
Nhị hạn mà gặp thì đau buồn khóc đứt ruột.
QNB chú: sách này không thấy vấn đáp vềThiên Hư như trong TVĐS Toàn Thư.
79.40 Hỏi Hồng Loan chủ đinh như thế nào?
Đáp viết:
Hồng Loan lâm vào Thân Mệnh chủ được sự cát lợi vui mừng, nam chiêu vợ đẹp, nữ chiêu hiền phu, nhập miếu thì cát lợi, lạc hãm thì gặp hung sự.
Hồng loan tinh tối hỉ,
Hôn phối hữu lương duyên,
Cánh hỉ thìn tuất địa,
Phú quý vĩnh miên miên,
Tài hóa thập phân mỹ,
Mạo mỹ sự quang nghiên,
Phúc đức đồng thân mệnh,
Siêu quần chúng sở hiền,
Cánh hữu lưu niên luận,
Kỳ tinh y thử an,
Nhị tinh trị thử túc,
Hỉ sự định nhiên lai.
(Sao Hồng Loan hân hoan
Có duyên lành hôn phối
Thêm mừng nơi Thìn Tuất
Phú quý rất dài lâu
Tiền của mười phần tốt
Việc tốt đẹp vẻ vang
Phúc Đức cùng Thân Mệnh
Chủ hiền tài xuất chúng
Thêm luận về lưu niên
Vẫn an sao như thế
Nhị tinh gặp sao ấy
Việc mừng tất nhiên đến).
79.41 Hỏi Thái Tuế chủ định như thế nào?
Đáp viết:
Thái Tuế là vua của năm hiện hành, là tinh của Hỏa vậy.
Cùng với chúng tinh không hòa thuận, gặp Tử Phủ Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thì phù trì, ít tai nạn, chỉ phòng về tai nạn của gia súc. Gặp Tứ Sát Hao Sứ thì tiền mất người chết, nữ nhân cần đề phòng sản nạn.
Sao này thủ Thiên Di Tài Bạch Quan Lộc 3 nơi, mừng có Tử Phủ Tả Hữu Cơ Lương Nhật Nguyệt, nhập miếu thì cát lợi, lạc hãm thêm sát tinh thì hung.
Ca viết:
Thái tuế đương đầu tọa,
Chư thần bất cảm đương,
Nhậm thị thiết la hán,
Dã cật trứu mi thang,
Phùng hung thiên tác ác,
Niên thần ngộ tất ương,
Nhược ngộ khoa quyền lộc,
Hoành phát bất tầm thường,
Kị túc lâm kỳ nội,
Giáp hạn tất thân vong,
Cánh hữu lưu niên luận,
Trùng phùng hạn bất lương,
Nhược hoàn lâm mệnh hạn,
Tai ương hữu hình thương,
Cánh trị quan phù túc,
Vị miễn phạm quan phòng,
Nhược ngộ cát tinh thấu,
Phương khả miễn tai ương.
(Thái Tuế ngôi đứng đầu
Chư thần không dám vượt
Đảm nhiệm thiết la hán
Húp canh nóng nhíu m*y
Gặp hung toàn làm ác
Năm đó gặp tai ương
Nếu gặp Khoa Quyền Lộc
Bỗng nhiên phát phi thường
Hóa Kị mà lâm vào
Kề hạn tất thân vong
Tai ương và hình thương
Gặp thêm sao Quan Phù
Chẳng tránh được quan tụng
Nếu gặp cát tinh hội
Có thể miễn tai ương).
80. Chư tinh mệnh hạn ca quyết.
Phía trên đây đã nói về Tử Vi viên, 7 ngôi bắc đẩu, sáu ngôi nam đẩu, cùng Phụ Bật tương trợ, với các thần sát cát hung, tinh hóa thiện ác, từng nhóm liệt kê tường tận, ngõ hầu học giả học tập thưởng lãm. Về lâu dài lại liệt kê ra các ca quyết về Mệnh hạn:
QNB chú: Các bài ca quyết sau đây, hầu hết đều giống như trong TVĐS Toàn Thư nhưng tại sách này có sự sắp xếp không hệ thông bằng, cũng có khổ thơ thì tại sách này có mà TVĐSTT không có và ngược lại TVĐSTT có mà sách này không có. Tôi vốn định bổ xung giữa 2 quyển tại đây nhưng sau lại quyết định xóa đi để dịch nguyên văn như cấu trúc sách này. Độc giả lưu ý.
* Tử vi nhập nam mệnh cát hung quyết:
Đế Tòa thiên trung đệ nhất tinh,
Mệnh Thân tương ngộ phúc tài hưng,
Nhược phùng tướng tá cung trung hội,
Phú quý song toàn hiệu lệnh danh.
Tử Vi thủ mệnh tối vi lương,
Nhị sát phùng chi thọ bất trường,
Dương Đà Hỏa Linh lai tương hội,
Chích hảo không môn lễ phạm vương.
Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân,
Phú nhi bất quý hữu hư danh,
Nhược phùng Tham Lang tại Mão Dậu,
Vi thần thất nghĩa bất tương ứng.
(Đệ nhất giữa trời Tử Vi tinh
Mệnh Thân gặp gỡ tài phúc vinh
Nếu thêm tướng tá trong cung hội
Phú quý song toàn danh hiển vinh.
Tử Vi thủ mệnh rất hiền lương
Gặp Kiếp Không xâm, thọ chẳng trường
Linh Hỏa Kình Đà cùng tới phạm
Chỉ hay theo Đạo với Phật đường.
Thìn Tuất Tử Vi gặp Phá Quân
Phú mà chẳng quý chỉ hư danh
Tham Lang cùng ở nơi Mão Dậu
Tôi thần thất nghĩa thật chẳng xứng).
* Tử Vi nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Tử Vi nữ Mệnh thủ Phu cung,
Tam phương cát củng tiện vi vinh,
Nhược phùng sát phá lai xung phá,
Y lộc doanh dư dâm xảo dung.
(Tử Vi nữ Mệnh thủ Phu cung
Tam phương cát chiếu tốt vô cùng
Nếu mà ác sát cùng xung phá
Vẫn thừa y lộc, nhưng dâm dung (nhan)).
* Tử Vi nhập hạn cát hung quyết:
Tử Vi viên nội cát tinh lâm,
Nhị hạn tương phùng phúc lộc hưng,
Thường nhân đắc ngộ đa tài phú,
Quan viên phùng chi chức vị thăng.
Tử Vi nhập hạn bản vi tường,
Chích khủng tam phương Sát Phá Lang,
Thường thứ phùng chi đa bất lợi,
Quan viên hàng trích hữu kinh thương.
Tử vi nữ mệnh thủ phu cung,
Nhị hạn phùng chi bất phạ xung,
Nhược thị vận trung hựu phùng cát,
Quản giáo phú quý sự tam công.
(Tử Vi cùng cát thủ trong cung
Phúc lộc cùng hưng, nhị hạn phùng
Quan chức được thăng thêm phẩm cấp
Dân thường tài lộc hưởng ung dung.
Tử vi nhập hạn vốn cát tường
Chỉ e Tham Sát Phá tam phương
Thứ dân gặp phải nhiều bất lợi
Quan bị giáng chức, có hình thương.
Tử Vi nữ mệnh thủ Phu cung
Nhị hạn mà gặp kể cả xung
Nếu như trong vận cát tinh hội
Đảm bảo phú quý việc thành công).
* Thiên Cơ nhập nam mệnh cát hung quyết:
Nam nữ thân mệnh trị Thiên Cơ,
Lộc chủ Khoa Quyền đại hữu vi,
Xuất nhập kinh thương đa ngộ quý,
Phát tài phát phúc thiểu nhân tri.
Cơ Nguyệt Thiên Lương hợp Thái Dương,
Thường nhân phú túc trí điền trang,
Quan viên đắc ngộ Khoa Quyền Lộc,
Chức vị cao thiên diện đế vương.
Thiên Cơ chiếu hạn bất an ninh,
Môn hộ phùng chi tất cải canh,
Biến động mưu vi chung hữu ứng,
Bất nhiên định thị thiểu hòa bình.
Thiên Cơ hóa Kỵ lạc nhàn cung,
Túng hữu tài quan diệc bất vinh,
Thoái tận gia tài kiêm thọ yểu,
Phiêu bồng tăng đạo trụ sơn trung.
(Nam nữ Thân Mệnh gặp Thiên Cơ
Lộc chủ Khoa Quyền được bội thu
Xuất nhập bán buôn thường đắt giá
Phát tài phát phúc ít người bằng.
Cơ Nguyệt Thiên Lương hội Thái Dương
Người thường giàu có lập điền trang
Quan viên mà được Khoa Quyền chiếu
Chức vị cao sang gặp đế vương
Thiên Cơ chiếu hạn kém an ninh
Cửa nhà gặp phải tất đổi thay
Biến động mưu cầu cuối mới ứng
Bằng không xác định kém an bình
Thiên Cơ hóa Kị lạc nhàn cung
Tài Quan đều chẳng thể tốt tươi
Gia tài giảm sút cùng tổn thọ
Phiêu bồng tăng đạo nơi núi rừng).
* Thiên Cơ nhập nữ mệnh cát hung quyết
Thiên Cơ nữ mệnh cát tinh phù,
Tác sự thao trì quá trượng phu,
Quyền Lộc cung trung phùng thủ chiếu,
Vinh ưng cáo mệnh quý vô luân.
Thiên Cơ tinh dữ Thái Âm đồng,
Nữ mệnh phùng chi dâm xảo dung,
Y lộc phong nhiêu chung bất mỹ,
Vi xướng vi thiếp chủ dâm phong.
Thiên Cơ Cự Hỏa lai tương hội,
Dương Nhận phùng chi chung bất quý,
Nữ nhân dâm đãng dạ bôn trì,
Chích hảo thiên phòng vi sử tỳ.
(Cơ nữ mệnh cát tinh củng chiếu
Bực anh thư liệu việc như thần
Lộc quyền thủ chiếu mệnh thân
Vinh hoa phú quý thập phần tốt tươi.
Cơ Nguyệt hãm đồng cung mệnh vị
Đẹp nhưng mà dâm mị dung nhan
Giàu nhưng chẳng được thập toàn
Xướng ca, tỳ thiếp, chủ hàng dâm phong.
Cơ Cự Hỏa lại cùng tương hội
Gặp Kình Dương thực chẳng quý gì
Nữ nhân dâm đãng đêm đi
Buộc lòng làm phận thiếp tỳ mà thôi).
* Thái Dương nhập nam mệnh cát hung quyết
Mệnh lý phùng Dương phúc thọ nùng,
Cánh kiêm Quyền Lộc lưỡng tương phùng,
Văn Xương Tả Hữu lai tương trọ,
Phú quý song toàn bỉ Thạch Sùng.
Nhật Nguyệt Sửu Mùi mệnh trung phùng,
Tam phương vô hóa phúc nan phong,
Cánh hữu cát tinh chung bất mỹ,
Nhược phùng sát thấu nhất sinh cùng.
Thất hãm Thái Dương cư phản bối,
Hóa Kị phùng chi đa kiển muội,
Hựu t*o hoạnh sự phá gia tài,
Mệnh cường Hóa Kị câu vô hại.
Nhị hạn thiên nghi kiến thái dương,
Thiêm tài tiến sản phúc phi thường,
Hôn nhân hòa hợp thiêm tự tục,
Sĩ giả cao thiên tọa triều đường.
(Mệnh Nhật phúc thọ đượm nồng
Lại thêm Quyền Lộc tương phùng đôi nơi
Lục cát củng tấu tuyệt vời
Vẹn toàn phú quý tựa đời Quý Luân.
Sửu Mùi Nhật Nguyệt đồng lâm
Tam phương vô Hóa phúc phần kém thay
Thêm cát, đẹp chẳng vẹn bày
Nếu phùng sát tấu ăn m*y chẳng sai
Hãm cung phản bối mấy ai
Nếu cùng Hóa Kị ngu dai dốt bền
Vụt phá gia tài cũng nên
Mệnh vững Hóa Kị chẳng thêm hại gì
Nhị hạn mà gặp Thái Dương
Tài tăng nghiệp tiến phi thường phúc lai
Hôn nhân tình cảm hòa hài
Người quan, kẻ sĩ văn tài đỗ cao).
* Thái Dương nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Thái Dương chính chính Mệnh dữ kỳ Thân,
Tư mạo thù thường tính cách trinh,
Cánh đắc cát tinh lai củng chiếu,
Châu quan hà phi tác phu nhân.
Thái Dương an Mệnh hữu kỳ năng,
Hãm địa tu phòng ác sát lăng,
Tác sự trầm ngâm đa tiến thoái,
Tân cần độ nhật miễn gia khuynh.
Thái Dương phản chiếu chủ tâm mang,
Y lộc bình thường thọ bất trường,
Khắc quá lương nhân hoàn khắc tử,
Chích nghi ấm hạ tác thiên phòng.
(Nhật Mệnh Thân nữ nhân quý hiển
Dung mạo đẹp, tính cách trung trinh
Lại cùng thủ chiếu cát tinh
Phu nhân nhất phẩm thân vinh một đời.
Mệnh Thái Dương, có tài kỳ lạ
Nếu hãm cung, phòng ác sát tinh
Khiến cho lâm sự chùng chình
Nếu mà chăm chỉ, gia đình miễn suy.
Nhật phản bối, người đa tâm sự
Tài lộc vừa, nhưng thọ chẳng đa
Khắc phu khắc tử chắc mà
Nhờ phúc thì phận cũng là thiếp thôi).
* Vũ Khúc nhập mệnh cát hung quyết:
Vũ Khúc thủ mệnh hóa vi quyền,
Cát diệu lai lâm phúc thọ toàn,
Chí khí tranh vanh đa xuất chúng,
Siêu phàm nhập thánh hướng nhân tiền.
Vũ Khúc chi tinh thủ mệnh cung,
Cát tinh thủ chiếu thủy vinh xương,
Nhược gia Hao Kiếp tịnh Tứ Sát,
Nhậm thị tài đa tất cánh không.
Nữ nhân Vũ Khúc mệnh trung phùng,
Thiên Phủ gia chi chí khí hùng,
Tả Hữu Lộc Tồn tương phùng tụ,
Phú quý song toàn mỹ vô cùng.
(Vũ Khúc Mệnh hóa thành quyền
Cát tinh thủ chiếu phúc miên thọ trường
Chí khí xuất chúng cao cường
Đứng đầu quan tướng dẫn đường chúng nhân
Vũ Khúc đóng ở Mệnh phần
Cát tinh thủ chiếu sớm thân thịnh giàu
Hao Kiếp Tứ Sát thì đau
Hoàn không tay trắng dù giàu cỡ nao.
Vũ Khúc tại mệnh nữ nhân
Có Thiên Phủ ấy thập phần chí cao
Tả Hữu cùng đến hội vào
Song toàn phú quý ai nào tốt hơn).
* Vũ Khúc nhập hạn cát hung quyết:
Đại tiểu hạn phùng Vũ Khúc tinh,
Nhược hoàn nhập miếu chủ tài hưng,
Cánh gia Văn Xương lâm Tả Hữu,
Phúc lộc song toàn đắc xứng tâm.
Vũ Khúc lâm hạn hóa quyền tinh,
Tối nghi hành sự tự tương thành,
Cánh ngộ cát tinh Khôi Việt miếu,
Văn nhân danh hiển thứ nhân hưng
Hạn phù Khúc tú chủ quan tai,
Công lại phùng chi hình trượng lai,
Thường thứ ngộ chi hoàn phụ trái,
Quan viên chiêu tụng nhạ kinh hoài.
(Nhị hạn Vũ Khúc tương phùng
Nếu mà miếu vượng ắt hưng tiền tài
Văn xương tả hữu đáo lai
Thực là đắc ý phúc tài mãn viên
Hạn gặp Vũ Khúc hóa Quyền
Bao nhiêu mưu sự tự nhiên sẽ thành
Cát diệu Khôi Việt đồng hành
Dân thường, văn sĩ, hiển danh tăng tài
Vũ khúc hạn chủ quan tai
Công chức gặp nó phiền hoài đòn roi
Người thường bị chủ nợ đòi
Kẻ quan mà gặp dễ toi chức quyền)
* Thiên Đồng nhập mệnh cát hung quyết:
Thiên Đồng tọa mệnh tính ôn lương,
Phúc lộc du du thọ cánh trường,
Nhược thị phúc nhân cư miếu vượng,
Định giáo thực lộc dự danh dương.
Thiên Đồng nhược dữ cát tinh phùng,
Tính cách thông minh bách sự thông,
Nam tử định nhiên thực thiên lộc,
Nữ nhân nhạc thủ tú khuê trung.
Thiên Đồng thủ mệnh lạc nhàn cung,
Hỏa Linh sát hợp cánh vi hung,
Thiên Cơ Lương Nguyệt lai tương thấu,
Chích hảo không môn độ tuế chung.
Thiên Đồng thủ mệnh phụ nhân trinh,
Tính cách thông minh linh lợi nhân,
Xương Khúc cánh lai tương hội xứ,
Du du tài lộc tự thiên thân.
Thiên Đồng nhược dữ Thái Âm đồng,
Nữ mệnh phùng chi dâm xảo dung,
Y lộc tuy phong chung bất mỹ,
Thiên phòng thị thiếp dữ nhân thông.
(Thiên Đồng thủ mệnh hiền lương
Tài danh phúc lộc thọ trường lắm thay
Một khi miếu vượng đất này
Nổi danh nghề giáo làm cùng rày mắn may
Cát tinh củng chiếu càng hay
Thông minh uyên bác thẳng ngay tính tình
Nam nhân phúc lộc tày đình
Nữ nhân ích tử đẹp xinh tuyệt vời
Nếu mà lạc hãm phương trời
Hỏa Linh sát tấu một đời hiểm nguy
Thiên Cơ, Lương, Nguyệt hội thì
Nương mình tăng đạo, qua đi tháng ngày
Thiên Đồng thủ, nữ nhân hiền thục
Tính thông minh, nhanh nhẹn giỏi giang
Khúc Xương cùng hội một đàng
Dồi dào tài lộc, an nhàn tấm thân
Nếu như cùng Thái Âm đồng độ
Nữ mệnh thời dâm xảo dung nhan
Giàu sang nhưng chẳng vẹn toàn
Nếu không tì thiếp thì hàng thứ thê).
* Thiên Đồng nhập hạn cát hung quyết:
Nhân sinh nhị hạn trị Thiên Đồng,
Hỉ khí doanh môn vạn sự phong,
Tài lộc tăng thiêm nghi tự tạo,
Tòng kim gia đạo đắc tòng dung.
Hạn chí Thiên Đồng sự bất ninh,
Tất đương sang nghiệp kết hôn nhân,
Nhược phi biến động cầu mưu vọng,
Thủ cựu tu phòng họa cập thân.
Lưu niên nhị hạn trị Thiên Đồng,
Hãm địa tu phòng ác sát xung,
Tác sự mỹ trung hoàn vị mỹ,
Duy phòng quan tai cập gia khuynh.
(Nếu như nhị hạn gặp Thiên Đồng
Hỉ khí đồi dào vạn sự thông
Tài lộc tăng thêm mừng đổi mới
Gia đạo yên bình, việc thành công.
Hạn đến Thiên Đồng việc bất yên
Tất gánh cơ nghiệp, kết hôn nhân
Nếu không biến động cầu mưu vọng
Thủ cựu đề phòng họa vào thân.
Lưu niên nhị hạn gặp Thiên Đồng
Hãm địa sát tinh lại vây công
Việc làm dang dở, rồi thất bại
Khuynh nhà, kiện tụng, sự chẳng thông).
* Liêm Trinh nhập nam mệnh cát hung quyết:
Liêm Trinh thủ mệnh diệc phi thường,
Phú tính nguy nguy chí khí cương,
Cách cố đỉnh tân quan đại quý,
Vi quan thanh hiển tính danh hương.
Liêm Trinh tọa mệnh lạc nhàn cung,
Tham Phá Kình Dương Hỏa cánh xung,
Túng hữu tài quan dã bất mỹ,
Nhất sinh kiển tòng thiểu tòng dung.
Liêm Trinh lạc hãm nhập nhàn cung,
Cát diệu tương phùng dã hữu hung,
Yêu túc tai tàn nan thoát ách,
Cánh nghi xuất hạn mệnh quy không).
(Liêm Trinh thủ mệnh thật phi thường
Bẩm tính mạnh mẽ chí quật cường
Canh tân cải cách quan đại quý
Chính trực thanh liêm nức bốn phương
Liêm Trinh tọa mệnh lạc nhàn cung
Tham Phá Kình Dương Hỏa chiếu xung
Dẫu có tài quan vẫn không đẹp
Cả đời chẳng được lúc ung dung.
Liêm Trinh lạc hãm nhập nhàn cung
Cát diệu tương phùng vẫn gặp hung
Giảm thọ, bệnh đau, nhiều tai nạn
Lại hợp xuất gia quy cửa Không)
* Liêm Trinh nhập nữ mệnh cát hung quyết:
Nữ nhân Thân Mệnh trị Liêm Trinh,
Nội chính thanh liêm cách cục tân,
Chư cát củng triều vô sát phá,
Định giáo phong tặng tại thanh xuân.
Liêm Trinh Tham Phá Khúc tương ngộ,
Đà Hỏa giao gia đa bất quý,
Định chủ hình phu khắc lục thân,
Chích hảo quá phòng vi sử tỳ.
(Nữ nhân Thân Mệnh gặp Liêm Trinh
Tề gia đoan chính thực đẹp xinh
Chư cát củng chiếu vô sát phá
Dạy rằng còn trẻ được hiển vinh.
Liêm Trinh Tham Phá Khúc tương phùng
Hỏa Đà thủ chiếu tiện vô cùng
Định rằng khắc tử hình phu chắc
Chỉ làm tì thiếp ca xướng cung).
* Thiên Phủ nhập mệnh hạn cát hung quyết:
Thiên Phủ chi tinh thủ Mệnh cung,
Gia chi Quyền Lộc hỉ tương phùng,
Khôi Xương Tả Hữu lai tương hội,
Phụ phượng phàn long thượng cửu trùng.
Nữ nhân Thiên Phủ Mệnh Thân cung,
Tính cách thông minh hoa dạng dung,
Cánh đắc Tử Vi tam hợp chiếu,
Kim quan hà bội thụ hoàng phong.
Hạn lâm Thiên Phủ năng ti lộc,
Sĩ thứ phùng chi đa phát phúc,
Thiêm tài tiến hỉ vĩnh vô tai,
Thả dã nhuận thân dã nhuận ốc.
(Thiên Phủ tôn tinh thủ mệnh cung
Rất mừng Quyền Lộc đến tương phùng
Khôi Việt, Tả Hữu, Xương Khúc hội
Thềm rồng nhiếp chính giúp Quân trung.
Nữ nhân Thiên Phủ mệnh thân cung
Thông minh khéo léo, mỹ nhân dung
Cùng hội Tử Vi tam hợp chiếu
Hoàng ân thụ hưởng phúc trùng trùng.
Hạn lâm Thiên Phủ tài lộc tăng
Kẻ sĩ, thường nhân phúc vinh thăng
Thêm tài, thêm tước vô tai nạn
Thân hiển gia đình cũng an bằng).
* Thái Âm nhập mệnh cát hung quyết:
Thái Âm nguyên thị thủy chi tinh,
Thân Mệnh phùng chi phúc tự sinh,
Dậu Tuất Hợi viên vi đắc địa,
Quang huy dương hiển tính danh hanh.
Thái Âm nhập miếu hóa quyền tinh,
Thanh tú thông minh quý vô luân,
Bẩm tính ôn lương cung kiệm nhượng,
Vi quan thanh hiển liệt triều cương.
Dần thượng Cơ Xương Khúc Nguyệt phùng,
Túng nhiên cát củng bất phong long,
Nam vi bộc tòng nữ vi kỹ,
Gia sát xung sát đáo lão cùng.
Thái Âm hãm địa ác tinh trung,
Đà Hỏa tương phùng định khốn cùng,
Thử mệnh chích nghi tăng dữ đạo,
Không môn xuất nhập đắc tòng dung.
(Thái Âm vốn dĩ là Thủy tinh
Thủ nơi Thân Mệnh, phúc tự sinh
Dậu Tuất Hợi cung là miếu địa
Danh vang, tính hiển thực quang vinh
Thái Âm nhập miếu hóa Quyền tinh
Tướng mạo thanh tú lại thông minh
Bẩm tính hiền hòa, cùng khiêm nhượng
Làm quan cao quý tại triều đình.
Dần cung, Cơ Nguyệt Khúc cùng Xương
Dẫu được cát chiếu chẳng xiển dương
Nam làm nô bộc, nữ làm kỹ
Sát xung thêm sát, già cùng đường.
Thái Âm hãm địa ác tinh phùng
Kình Đà Linh Hỏa tất khốn cùng
Mệnh này chỉ hợp theo tăng đạo
Không môn xuất nhập được ung dung).
* Thái Âm nhập hạn cát hung quyết
Thái Âm tinh tại hạn trung phùng,
Tài lộc phong doanh bách sự thông,
Giá thú nghênh thân thiêm tự tục,
Thường nhân đắc thử vượng môn phong.
Nhị hạn thiên nghi kiến Thái Âm,
Thiêm ốc tiến tài phúc phi khinh,
Hỏa Linh nhược dã lai tương tấu,
Vị miễn quan tai bệnh hoạn lâm.
Hạn chí Thái Âm cư phản bối,
Bất hỉ Dương Đà tam phương hội,
Hỏa Linh nhị hạn tối vi hung,
Nhược bất quan tai đa phá hối.
(Nhập hạn Thái Âm miếu thủ cung
Tăng tài tiến lộc, vạn sự thông
Giá thú hôn nhân, thêm con cháu
Người thường cũng được vượng gia môn
Nhị hạn cung kia gặp Thái Âm
Thêm nhà, thêm lộc, hồng phúc lâm
Chẳng may gặp Hỏa Linh thủ chiếu
Bệnh tật, cùng là kiện tụng xâm
Hạn ấy Thái Âm cư phản bối
Tam phương Kình Đà đến tương hội
Lại thêm Linh Hỏa, hung cùng cực
Dẫu chẳng quan tai, cũng phá tài).
* Tham Lang nhập mệnh cát hung quyết
Tứ Mộ cung trung phúc khí nùng,
Đề binh dung dị lập biên công,
Hỏa Tinh củng hội thành vi quý,
Danh chấn chư di định hữu phong.
Tham Lang thủ mệnh tại Dương cung,
Đà Sát giao gia tất khốn cùng,
Vũ Phá Liêm Trinh gia sát tấu,
Bách nghệ phòng thân tự tòng dung.
Tứ Mộ Tham Lang cát địa trung,
Gia lâm Tả Hữu phú tài phong,
Thập nhiên tái hóa Khoa Quyền Lộc,
Tính cách cương cường hỉ khí nùng.
Tham Lang hãm địa nữ phi tường,
Y thực tuy phong dã bất lương,
Khắc hại lương nhân tịnh tử tức,
Hựu giáo khâm chẩm thủ cô sương.
(Tham cư tứ mộ hưởng phúc hồng
Cầm binh biên ải dễ lập công
Hỏa Tinh thủ chiếu thêm đại quý
Nổi tiếng chư hầu, được tấn phong.
Tham Lang thủ mệnh Kình Dương cung
Đà Sát chiếu vây tất khốn cùng
Vũ Phá Liêm Trinh cùng Sát tụ
Nhiều nghề bươn chải đến lâm chung
Tứ mộ Tham Lang miếu vượng cung
Có thêm Tả Hữu thực phú ông
Nếu như lại được Khoa Quyền Lộc
Tính cách cương cường hỉ khí nồng.
Tham Lang hãm địa nữ xấu xa
No ấm nhưng lòng thực gian tà
Khắc hại chồng con cùng gia đạo
Số thời cô quả chẳng sai ngoa).
* Tham Lang nhập hạn cát hung quyết
Bắc đẩu Tham Lang nhập hạn lai,
Nhược hoàn nhập miếu sự hòa hài,
Khoa Quyền sĩ lộ đa thành tựu,
Tất chủ đương niên phát hoạnh tài.
Tham Lang chủ hạn vận lai lâm,
Cánh hỉ nhân sinh tứ Mộ sinh,
Nhược kiến Hỏa Tinh đa hoạnh phát,
Tự nhiên phú quý xứng nhân tâm.
Hạn chí Tham Lang hãm bất thường,
Chích nghi canh cải tức tai thương,
Phụ nhân lục giáp như hoài xứ,
Cát diệu tam phương khả miễn tai.
Nữ hạn Tham Lang sự bất lương,
Nghi hoài lục Giáp miễn tai ương,
Nhược vô cát diệu lai tương hội,
Nhất mệnh tu giáo tiện giảo vong.
(Bắc đẩu Tham Lang nhập hạn ai
Nếu như nhập miếu việc hòa hài
Khoa Quyền kẻ sĩ công danh tiến
Tất chủ cả năm bỗng phát tài.
Tham Lang chủ hạn vận đến trong
Thật mừng người tuổi tứ Mộ thời
Nếu gặp Hỏa Linh thì đại phát
Tự nhiên phú quý xứng toại lòng.
Hạn Tham Lang hãm thực bất thường
Vướng vào ái dục, nạn tai vương
Những người lục Giáp vào nơi ấy
Cát chiếu tam phương miễn tai ương.
Nữ hạn Tham Lang hãm bất lương
May ra tuổi Giáp miễn tai ương
Nếu không có cát tinh hội chiếu
Mệnh cần biết sớm gặp Diêm Vương).
* Cự Môn nhập mệnh hạn cát hung quyết
Cự Môn Tý Ngọ nhị cung phùng,
Đắc ngộ kỳ trung phú quý ông,
Tam hợp hóa Khoa Quyền Lộc chiếu,
Thạch trung ẩn ngọc chủ doanh phong.
Thử tinh hóa ám bất nghi phùng,
Cánh hội sát tinh dũ tứ hung,
Thần xỉ hữu thương kiêm tính mãnh,
Nhược nhiên nhập miếu tự hưởng thông.
Cự Môn thủ mệnh ngộ Kình Dương,
Hỏa Linh phùng chi sự bất tường,
Vi nhân tính cấp đa điên đảo,
Bách sự mang mang loạn chủ trương.
Cự Môn chủ hạn hóa Quyền tinh,
Tối hỉ cầu mưu vạn sự thành,
Tuy hữu quan tai tịnh khẩu thiệt,
Phùng hung hóa cát đắc an ninh.
Cự Môn nhập hạn động nhân sầu,
Nhược ngộ Tang Môn sự bất chu,
Sĩ thứ phùng chi đa nhạ tụng,
Cư quan thất chức hữu đinh ưu.
(Tý Ngọ nhị cung gặp Cự Môn
Gặp được nơi đó phú quý ông
Tam hợp hóa cát Khoa Quyền Lộc
Ngọc ẩn trong đá chủ tốt tươi.
Cự Môn hóa ám chẳng nên phùng
Hội thêm tứ sát với bầy hung
Răng môi đau đớn, tính cương mãnh
Nếu như miếu địa lại bình thường.
Cự Môn thủ mệnh hội Kình Dương
Hỏa Linh lâm tới sự khó lường
Làm người nóng tính cùng điên đảo
Trăm sự hoang mang loạn chủ trương
Cự Môn chủ hạn hóa Quyền tinh
Cực tốt cầu mưu vạn sự vinh
Tuy có quan tai cùng khẩu thiệt
Phùng hung hóa cát được an bình.
Cự Môn hạn động khiến người buồn
Nếu có Tang Môn sự chẳng suôn
Sĩ tử gặp thì nhiều kiện cáo
Kẻ quan mất chức có đau buồn).
* Thiên Tướng nhập mệnh hạn cát hung quyết:
Thiên Tướng tinh thần quý đẳng luân,
Chiếu thủ thân mệnh hỉ vô ngần,
Vi quan tất chủ cư nguyên tể,
Tam hợp tương phùng phúc bất khinh.
Thiên Tướng chi tinh cảm chủ tài,
Chiếu lâm nhị hạn tất vô tai,
Động tác mưu vi giai toại ý,
Du du hưởng phúc tự nhiên lai.
Thiên Tướng chi tinh hữu cơ bàn,
Tam phương bất hỉ ác tinh triền,
Dương Đà Không Kiếp trùng tương hội,
Khẩu thiệt quan tai họa diệc liên.
Hạn lâm Thiên Tướng ngộ Kình Dương,
Tác họa hưng ương bất khả đương,
Cánh hữu Hỏa Linh chư sát tấu,
Tu giáo nhất mệnh nhập tuyền hương.
(Thiên Tướng cát tinh quý thập phần
Chiếu thủ Thân Mệnh tốt vô ngần
Làm quan tất chủ ngôi Tể Tướng
Tam hợp tương phùng phúc tuyệt luân.
Thiên Tướng sao ấy chủ phúc tài
Chiếu lâm nhị hạn chẳng nạn tai
Mưu sự thành công, việc toại ý
Thong dong hưởng phúc tự nhiên lai.
Hạn vào Thiên Tướng ở cơ bàn
Tam phương chẳng muốn ác tinh sang
Kình Đà Không Kiếp mà tương hội
Khẩu thiệt, quan tai, họa hoạn tràn.
Hạn lâm Thiên Tướng ngộ Kình Dương
Tác họa, tai ương khó mà đương
Nếu thêm Linh Hỏa cùng sát hội
Số này dễ xuống gặp Diêm Vương).
* Thiên Lương nhập mệnh cát hung quyết:
Thiên Lương chi diệu số trung cường,
Hình thần ổn trọng tính cách lương,
Tả Hữu Xương Khúc lai hội hợp,
Quản giáo phú quý liệt triều cương.
Thiên Lương ngộ Hỏa lạc nhàn cung,
Đà sát gia chi đa bất quý,
Cô hình đới tật thiểu lục thân,
Chích khả tân cần vi hoạt kế.
Thìn Tuất Cơ Lương phi tiểu bổ,
Phá Quân Mão Dậu bất vi lương,
Nữ nhân đắc thử vi cô độc,
Khắc phu hình tử thủ lãnh phòng.
(Thiên Lương ấy, sao cường trong số
Ổn hình thần, bẩm tính thiện lương
Hội hợp Tả Hữu Khúc Xương
Dạy quý nhân ở triều cương danh lừng.
Thiên Lương tinh, nhàn cung gặp Hỏa
Đà sát xung, thật chẳng quý gì
Cô hình, tật bệnh, bần cùng
Cần cù nghề khéo mà dùng sinh nhai
Thìn Tuất Cơ Lương lợi chẳng ít
Phá Quân Mão Dậu lại không lành
Nữ nhân mà gặp là cô độc
Khắc phu hình tử, sớm phòng không).
* Thiên Lương nhập hạn cát hung quyết:
Thiên Lương hóa Ấm cát tinh hòa,
Nhị hạn phùng chi phúc tất đa,
Nhược gia cát diệu phùng miếu địa,
Quý cực nhất phẩm phụ sơn hà.
Thiên lương thủ hạn thọ duyên trường,
Tác sự cầu mưu cánh cát xương,
Nhược ngộ Hỏa Linh Dương Đà hợp,
Tu phòng nhất ách dữ gia vong.
(Thiên Lương hóa Ấm cát tinh hòa
Nhị hạn gặp thì phúc lộc đa
Nếu thêm cát diệu nơi miếu địa
Quý đến cực phẩm, giúp sơn hà
Thiên Lương thủ hạn thọ duyên trường
Cầu mưu, tác sự được vinh xương
Nếu gặp Hỏa Linh Kình Đà hội
Đề phòng phá sản kẻo ra đường).
* Thất Sát nhập mệnh cát hung quyết:
Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ cung,
Tứ di củng thủ phục anh hùng,
Khôi Việt Tả Hữu Văn Xương hội,
Khoa Lộc danh cao thực vạn chung.
Sát cư hãm địa bất kham ngôn,
Hung họa do như bão hổ miên,
Nhược thị sát cường vô chế phục,
Thiếu niên ác tử đáo hoàng tuyền.
Thất Sát Kim tinh hình
Bột tinh diệc kỳ danh
Cô đơn đa hình khắc
Chích thị tăng dữ đạo.
Nữ mệnh sầu phùng Thất Sát tinh,
Bình sinh tác sự quả thông minh,
Khí cao chí đại vô nam nữ,
Bất miễn hình phu lịch khổ tân.
Thất Sát cô tinh Tham tú ngộ,
Hỏa Đà tấu hợp phi vi quý,
Nữ nhân đắc thử tính bất lương,
Chích hảo thiên phòng vi sử tỳ.
(Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ cung
Biên ải bốn phương phục anh hùng
Khôi Việt Tả Hữu Văn Xương hội
Khoa Lộc danh cao lộc vạn chung.
Khó mà nói hết Sát hãm cung
Làm bạn còn ôm hổ ngủ cùng
Nếu thêm hung sát vô chế phục
Thiếu niên chết thảm lúc lâm chung.
Thất Sát hình dáng Kim
Là sao chổi – Bột tinh
Cô đơn thường hình khắc
Chỉ hợp tăng với đạo.
Nữ mệnh ưu phiền Thất Sát này
Thông minh quả quyết lại cao tay
Chí khí còn hơn nhiều nam tử
Chẳng tránh khắc phu, trải đắng cay.
Thất Sát cô thần, gặp Tham Lang
Hỏa Đà tấu hợp chẳng quý sang
Nữ nhân mà gặp tính không thiện
Chỉ tổ làm thiếp với a hoàn).
* Thất Sát nhập hạn cát hung quyết:
Nhị hạn tuy nhiên phùng Thất Sát,
Thung dung hòa hoãn gia đạo phát,
Đối cung Thiên Phủ chính lai triều,
Sĩ hoạn phùng chi danh hiển đạt.
Thất Sát chi tinh tức thu tức,
Tác sự gian nan thất hựu thất,
Cánh gia ác sát tại kỳ trung,
Chủ hữu quan tai đa bệnh tật.
(Nhị hạn mặc dù phùng Thất Sát
Thong thả hài hòa gia đạo phát
Đối cung Thiên Phủ chính triều lại
Sĩ tử hoạn lộ danh hiển đạt.
Tỉ ti tấm tức Thất Sát tinh
Vào việc gian nan đều dễ khuynh
Thêm vào ác diệu trong hạn ấy
Chủ tật bệnh mang lại ngục hình).
* Phá Quân nhập mệnh cát hung quyết:
Phá Quân Thất Sát dữ Tham Lang,
Nhập miếu anh hùng bất khả đương,
Quan võ mệnh phùng vi thượng tướng,
Thứ nhân phú túc trí điền trang.
Phá Quân nhất diệu tối nan đương,
Hóa Lộc Khoa Quyền hỉ phi thường,
Nhược hoàn hãm địa nhưng gia sát,
Phá tổ ly tông xuất viễn hương.
Phá Quân nhập mệnh yếu thôi tường
Miếu địa phương tri phúc lộc xương
Cánh ngộ Văn Xương Khôi Việt thấu
Quản giáo vận chí tọa cầm đường.
Phá Quân Tý Ngọ vi nhập miếu,
Nữ mệnh phùng chi đại cát xương,
Tính cách hữu năng thiên xuất chúng,
Vượng phu ích tử tính danh hương.
Phá Quân nữ mệnh bất nghi phùng,
Kình Dương gia hãm tiện thị hung,
Khắc hại lương nhân phi nhất thứ,
Tu giáo bi khốc độ triêu hôn.
(Phá Quân Thất Sát với Tham Lang
Nhập miếu anh hùng danh tiếng vang
Theo võ thì thăng làm thượng tướng
Người thường giàu có lắm điền trang
Phá Quân nhất diệu khó đảm đương
Hóa Lộc Khoa Quyền mừng dị thường
Nếu mà hãm địa cùng thêm sát
Phá tổ ly tông tới viễn phương.
Phá Quân nhập mệnh cần tỏ tường
Miếu địa nên biết phúc lộc hưng
Thêm gặp Văn Xương Khôi Việt hội
Dạy rằng hạn ấy ngồi phòng nhạc
Phá Quân Tý Ngọ là nhập miếu
Nữ mệnh gặp thì phúc thọ nhiều
Tính cách tài năng lại xuất chúng
Vượng phu ích tử danh mỹ miều
Phá Quân nữ mệnh chẳng hợp phùng
Thêm hãm Kình Dương sẽ rất hung
Khắc hại chồng con vài ba bận
Nên biết buồn đau trải sớm hôm).
* Phá Quân nhập hạn cát hung quyết:
Phá Quân nhập hạn tế thôi tường,
Miếu địa vô hung thiểu tổn thương,
Sát tấu Phá Quân phòng phá háo,
Cánh phòng thê tử tự thân vong.
Phá Quân chủ hạn đa nùng huyết,
Thất thoát quai trương bất khả thuyết,
Cánh trị nữ nhân chủ hiếu phục,
Huyết quang sản nạn tai ương tiết.
(Nhập hạn Phá Quân xét kỹ càng
Miếu địa vô hung sẽ vẻ vang
Hễ gặp sát tinh phòng phá tán
Phòng vợ con cùng bản thân vong.
Phá Quân chủ hạn đẫm máu tanh
Mất mát bất thường sự chẳng lành
Nữ nhân gặp phải vận tang phục
Huyết quang sản nạn, thì họa giảm).
* Văn Xương nhập mệnh cát hung quyết
Văn Xương chủ khoa giáp
Thìn Tị thị vượng địa
Lợi Ngọ hiềm Mão Dậu
Hỏa sinh nhân bất lợi
Văn Xương tọa mệnh vượng cung lâm,
Chí đại tài cao để vạn kim,
Văn nghệ tinh hoa tâm tráng đại,
Tu giáo bình bộ thượng thanh vân.
Văn Xương thủ mệnh diệc phi thường,
Hạn bất yểu thương phúc thọ trường,
Chích phạ hạn xung phùng Hỏa Kỵ,
Tu giáo yểu chiết đới hình thương.
Nữ nhân Thân Mệnh trị Văn Xương,
Tú lệ thanh kỳ phúc canh trường,
Tử Phủ đối xung tam hợp chiếu,
Quản giáo phú quý trứ hà thường.
Văn Xương nữ mệnh ngộ Liêm Trinh,
Hãm địa Kình Dương Hỏa Kỵ tinh,
Nhược bất vi xướng chung thọ yểu,
Thiên phòng do đắc chủ nhân khinh.
(Văn Xương chủ khoa bảng
Thìn Tị là vượng địa
Đắc Ngọ, ghét Mão Dậu
Người mệnh Hỏa bất lợi.
Văn Xương tọa mệnh vượng cung này
Chí cả tài cao, thực quý thay
Văn nghệ tinh thông, tâm hùng tráng
Dạy rằng rảo bước rộng đường mây.
Văn Xương thủ mệnh cũng phi thường
Hạn chẳng yểu thương sẽ thọ trường
Chỉ sợ hạn xung phùng Hỏa, Kị
Dạy rằng yểu chiết đới hình thương
Nữ nhân Thân Mệnh gặp Văn Xương
Xinh đẹp thanh kỳ phúc thọ trường
Tử Phủ đối xung tam hợp chiếu
Dạy rằng phú quý thực sung sướng
Văn Xương nữ mệnh hội Liêm Trinh
Hãm địa Kình Dương Hỏa Kị tinh
Nếu không kỹ xướng thì yểu thọ
Tỳ thiếp còn bị chủ nhân khinh).
* Văn Xương nhập hạn cát hung quyết:
Văn Xương chi tú tối vi thanh,
Đấu số chi trung đệ nhất tinh,
Tăng đạo hạn phùng đa ngộ quý,
Sĩ nhân trị thử chiêm khoa danh.
Hạn ngộ Văn Xương bất đắc địa,
Cánh hữu Dương Đà Hỏa Linh Kị,
Quan phi khẩu thiệt phá gia tài,
Vị miễn hình thương đa hối trệ.
(Văn Xương sao ấy cực kỳ thanh
Đẩu số này đây đệ nhất danh
Tăng đạo hạn gặp thường được quý
Học trò có nó đỗ đạt nhanh.
Hạn gặp Văn Xương hãm địa cung
Kình Đà Linh Hỏa Hóa Kị phùng
Phá tan gia sản, quan tụng thiệt
Chẳng miễn hình thương, hối hận vương).
* Văn Khúc nhập mệnh cát hung quyết:
Văn Khúc thủ mệnh tối vi lương,
Tướng mạo đường đường chí khí ngang,
Sĩ thứ phùng chi ứng phúc hậu,
Trượng phu đắc thử thụ kim chương.
Văn Khúc thủ viên phùng Hỏa Kị,
Bất hỉ tam phương ác sát tụ,
Thử nhân tuy xảo khẩu năng ngôn,
Duy tại không môn khả ngộ quý.
Nữ nhân mệnh lý phùng Văn Khúc,
Tướng mạo thanh kỳ vô lao lục,
Thông minh linh lợi bất tầm thường,
Hữu sát thiên phòng vô phát phúc.
(Văn Khúc thủ mệnh rất cát tường
Hiên ngang chí khí vẻ đường đường
Quan dân mà gặp đều phúc hậu
Trượng phu sẽ hưởng thụ ân vương.
Văn Khúc Mệnh viên Hỏa Kị phùng
Chẳng mừng ác sát đến chiếu xung
Kẻo mà khéo nịnh làm không nổi
Theo chốn không môn mới khỏi hung).
Nữ nhân mệnh lý phùng Văn Khúc
Tướng mạo thanh kỳ có nhiều phúc
Lanh lợi thông minh thực khác thường
Sát chiếu, làm thiếp khó phát phúc).
* Văn Khúc nhập hạn cát hung quyết:
Nhị hạn tương phùng Xương dữ Khúc,
Sĩ thứ tư niên tu phát phúc,
Cánh thiêm Tả Hữu hội Thiên Đồng,
Tài lộc thao thao vi thượng cục.
Văn Khúc hạn ngộ Liêm Đà Dương,
Hãm địa phi tai nhạ họa ương,
Cánh kiêm mệnh lý tinh thần nhược,
Tu tri thử tuế nhập tuyền hương.
Văn khúc liêm trinh hạn nội phùng,
Dương đà hỏa túc hựu tương trùng,
Nhược vô cát diệu lai tương trợ,
Tu lự nam kha nhất mộng trung.
(Nhị hạn tương phùng Văn Khúc tinh
Quan dân năm ấy hưởng phúc ninh
Lại thêm Tả Hữu Thiên Đồng hội
Tài lộc dồi dào thượng cục định.
Hạn Văn Khúc gặp Kình Đà Trinh
Hãm địa tất rước họa hoạn kinh
Nếu Mệnh tinh thần mà suy nhược
Biết rằng năm ấy về U Minh (âm ty cõi).
Văn Khúc Liêm Trinh hạn gặp cùng
Kình Đà Hỏa tú lại tương phùng
Nếu thiếu cát tinh tới tương trợ
Nam Kha một giấc mộng hồn trung).
* Tả Phụ nhập mệnh hạn cát hung quyết
Tả Phụ tôn tinh năng giáng phúc,
Phong lưu đôn hậu thông kim cổ,
Tử Phủ Lộc Quyền Tham Vũ hội,
Văn quan võ chức đa thanh quý.
Tả Phụ hạn phùng phúc khí hưng,
Thường nhân phú túc lũy thiên kim,
Quan viên cánh đắc Khoa Quyền chiếu,
Chức vị cao thiên tá thánh quân
Tả Phụ chi tinh nhập hạn lai,
Bất nghi sát tấu chủ bi ai,
Hỏa Linh Không Kiếp lai tương tấu,
Tài phá nhân vong sự sự ai.
(Tả Phụ tôn tinh thường giáng phúc
Phong lưu đôn hậu uyên bác thực
Tử Phủ Lộc Quyền Tham Vũ hội
Hai ban van võ đều quý cực.
Hạn vào Tả Phụ phúc khí dày
Người thường giàu có lộc nhiều thay
Quan viên lại được Khoa Quyền chiếu
Thăng chức cạnh vua đúng hạn này.
Tả Phụ hạn kia đã nhập vào
Chẳng ưa Sát tấu chủ buồn sao
Hỏa Linh Không Kiếp cùng tụ tập
Người mất tiền tan lắm lao đao).
* Hữu Bật nhập mệnh hạn cát hung quyết
Hữu Bật Thiên Xu thượng tể tinh,
Mệnh phùng trọng hậu tối thông minh,
Nhược vô Hỏa Kỵ Dương Đà hội,
Gia cát tài quan quán thế anh.
Hữu Bật nhập hạn tối vi vinh,
Nhập tài hưng vượng tất đa năng,
Quan viên thiên trạc tăng đạo cát,
Sĩ tử thanh vân định hiển danh.
Hữu Bật chủ hạn ngộ hung tinh,
Tảo tận gia tư bách bất thành,
Sĩ t*o thương bại nô khi chủ,
Cánh giáo gia phá chủ linh đình.
(Hữu Bật Thiên Xu thượng tể tinh
Mệnh phùng phúc hậu rất thông minh
Nếu không gặp Hỏa Kình Đà Kị
Thêm cát tài quan cực hiển vinh
Hạn vào Hữu Bật được vinh thăng
Nhập tài hưng vượng lắm tài năng
Quan viên lên chức, tăng đạo phúc
Sĩ tử học hành tất hiển danh.
Hữu Bật chủ hạn gặp hung tinh
Quét sạch gia tài sự điêu linh
Kẻ sĩ bại thương, nô khinh chủ
Dạy rằng nhà phá chủ lênh đênh).
* Khôi Việt nhập mệnh hạn cát hung quyết
Thiên ất quý nhân chúng sở khâm,
Mệnh phùng kim đái phúc di thâm,
Phi đằng danh dự nhân tranh mộ,
Bác nhã giai thông cổ dữ kim.
Khôi việt nhị tinh hạn trung cường,
Nhân nhân ngộ thử quảng tiền lương,
Quan lại phùng chi phát tài phúc,
Đương niên tất định diện quân vương.
Tam hợp đối củng quý vi kỳ,
Tất định đương niên hoán tử y,
Thiểu tráng hắc đầu cư tướng phủ,
Cao ban nguyệt quế thượng đầu chi.
(Thiên Ất quý nhân, người tôn kính
Mệnh gặp đai vàng phúc thêm dày
Danh dự bay cao người người phục
Bác nhã làu thông cổ với kim
Khôi Việt nhị tinh hạn mạnh sao
Người người gặp chúng tiền dồi dào
Quan lại mà được, phát tài phúc
Năm đó nhất định gặp quân vương.
Tam hợp dối củng quý vô ngần
Tất định năm ấy áo tía mang
Thanh thiếu niên mà cư Tướng Phủ
Được ban nguyệt quế bởi đỗ đầu).
* Lộc Tồn nhập mệnh cát hung quyết
Lộc tồn đối diện thủ thiên di,
Tam hợp phùng chi lợi lộc nghi,
Đắc phùng hà nhĩ nhân khâm kính,
Bạch thủ thành gia thịnh tổ cơ.
Giáp lộc củng quý tịnh hóa lộc,
Mệnh lí trọng phùng kim mãn ốc,
Bất duy phương trượng bỉ chư hầu,
Nhất thực vạn chung do vị túc.
(Lộc Tồn đối diện thủ Thiên Di
Tam hợp gặp lợi lộc hèn gì
Có được người người đều kính phục
Tự nhiên tay trắng khởi cơ đồ.
Giáp Lộc củng quý hợp Hóa Lộc (đây là giáp và hợp với vị trí của Hóa Lộc)
Mệnh lý mà gặp vàng đầy kho
Không chỉ một phương như chư hầu
Lộc ăn vạn chung chính bởi nó).
* Lộc Tồn nhập hạn cát hung quyết:
Lộc Tồn chủ hạn tối vi lương,
Tác sự cầu mưu tận cát xương,
Sĩ hoạn phùng chi đa chuyển chức,
Thứ nhân ngộ thử túc tiền lương.
Lộc Tồn chủ hạn hữu đa bàn
Bất hỉ tam phương ác sát triền
Tác sự mỹ trung hoàn vị mỹ
Tu phòng gia phá dữ gia hàn
(Lộc Tồn chủ hạn cực cát tường
Vào việc cầu mưu đều vinh xương
Quan lại gặp thì được thăng chức
Thứ dân cũng được đủ tiền lương.
Lộc Tồn chủ hạn có nhiều dạng
Không ưa ác sát chiếu tam phương
Khiến việc vốn đẹp lại không đẹp
Cần phòng phá gia chủ bần hàn).
* Thiên Mã nhập hạn cát hung quyết
Thiên Mã lâm hạn tối vi lương,
Tử Phủ Lộc Tồn ngộ phi thường,
Quan viên phùng chi thậm như ý,
Sĩ nhân thử tuế trung khoa trường.
Thiên Mã thủ hạn bất đắc trụ,
Hựu phạ Kiếp Không lai tương ngộ,
Cánh kiêm Thái Tuế tọa cung trung,
Hạn đáo kỳ nhân tầm tử lộ.
(Thiên Mã nhập hạn rất tốt lành
Lộc Tồn Tử Phủ gặp càng thanh
Quan viên gặp được thì thăng chức
Sĩ tử đi thi được vinh danh.
Thiên Mã thủ hạn chẳng biết chừng
Khi Kiếp Không hội thật khó ưng
Lại thêm Thái Tuế trong cung ấy
Là hạn người ta tới đường cùng).
* Hóa Lộc nhập mệnh cát hung quyết
Thập can Hóa Lộc tối vi vinh,
Nam mệnh phùng chi phúc tự sinh,
Võ chức đề danh biên tái thượng,
Văn quan danh dự mãn triều đình.
Lộc chủ Thiên Đồng ngộ Thái Dương,
Thường nhân đại phú túc điền trang,
Tư tài lục súc giai sinh vượng,
Phàm hữu thi vi tận cát tường.
Lộc hợp uyên ương cục thanh cao
Tư nhân văn võ tổng anh hào
Đôi kim tích ngọc chân vinh hiển
Tước vị cao thiên y cẩm bào.
(Mười can Hóa Lộc rất là vinh
Nam mệnh mà phùng phúc tự sinh
Võ chức vang danh ngoài biên tái
Văn nhân danh dự mãn triều đình.
Lộc chủ Thiên Đồng gặp Thái Dương
Thường nhân đại phú đẫy ruộng nương
Gia tài gia súc đều thêm vượng
Phàm càng bố thí càng cát tường.
Thanh cao song Lộc hợp uyên ương
Đây người văn võ đều hùng cường
Ngọc vàng chồng chất thực vinh hiển
Tước vị cao sang áo gấm tía).
* Hóa Lộc nhập hạn quyết đoán:
Hạn trung nhược ngộ Lộc lai lâm,
Tước vị cao thiên tá thánh minh,
Thường thứ tương phùng đương đại quý,
Tự nhiên súc tích quảng kim ngân.
(Lộc vào trong hạn thực là vinh
Tước vị thăng cao tá Thánh Minh
Thường dân cũng được thêm phú quý
Tự nhiên tích trữ vàng bạc sinh).
* Hóa Quyền nhập mệnh cát hung quyết
Quyền sát chi tinh bất khả đương
Tam biên trấn thủ hảo hiên ngang
Mệnh Thân nhị hạn giai vi cát
Bất lạc không vong thọ cánh trường.
Quyền tinh tối hỉ cát tinh phù,
Sự nghiệp hiên ngang đảm khí thô,
Cánh trị Cự Môn kiêm Vũ diệu,
Tam biên trấn thủ chưởng binh phù.
Hóa Quyền cát diệu nữ nhân phùng,
Cánh cát gia lâm y lộc phong,
Phú quý song toàn nhân tính ngạnh,
Đoạt phu quyền bính phúc hưng long.
(Quyền sát sao này khó đảm đương
Hiên ngang trấn thủ tại biên cương
Mệnh Thân nhị hạn đều có cát
Chẳng lạc Không Vong thọ thêm trường.
Quyền tinh tối hỉ cát tinh phò
Sự nghiệp hiên ngang có gan to
Thêm gặp Cự Môn cùng Vũ Khúc
Thống lĩnh biên thùy, dân khỏi lo
Hóa Quyền sao tốt nữ nhân phùng
Lại thêm cát chiếu tài lộc hưng
Phú quý song toàn hiềm tính ngạnh
Lấn chồng nhưng phúc được hưng thịnh).
* Hóa Quyền nhập hạn cát hung quyết:
Thử tinh chủ hạn tối phi thường,
Quan lộc cao thăng tá đế vương,
Tài bạch phong thiêm nghi sáng nghiệp,
Tòng kim gia đạo bảo an khang.
Quyền tinh nhược ngộ Vũ Tham lâm,
Tác sự cầu mưu tận đắc thành,
Sĩ tử danh cao thiêm lộc vị,
Thứ nhân gia tích bảo kim ngân.
(Hóa Quyền chủ hạn rất phi thường
Quan lộc thăng cao tá đế vương
Tài bạch tốt tươi thêm sáng nghiệp
Tới nay gia đạo được an khương.
Quyền tinh nếu gặp Vũ Tham đồng
Tác sự cầu mưu đắc thành công
Sĩ tử danh cao thêm phúc lộc
Thứ dân vàng bạc cũng chất chồng).
* Hóa Khoa nhập mệnh cát hung quyết
Khoa Tinh văn tú tối vi lương,
Cẩm tú bảo trang phúc nội tàng,
Nhất dược vũ môn long biến hóa,
Quản giáo thanh đạt dự triêu đường.
Khoa tinh nhập mệnh khởi tầm thường,
Cẩm tú tài hoa triển miếu lang,
Cánh ngộ Khúc Xương Khôi Việt tú,
Long môn nhất dược tính danh dương.
Hóa Khoa nữ mệnh thị lương tinh,
Tứ đức kiêm toàn tính cách thanh,
Cánh ngộ cát tinh Quyền Lộc thấu,
Phu vinh tử quý tác phu nhân.
(Hóa Khoa văn tú rất thanh kỳ
Văn chương bay bổng đẹp tứ thi
Vượt vũ môn thành rồng biến hóa
Bảo đảm hiển đạt dự triều đình
Khoa tinh nhập mệnh há tầm thường
Cẩm tú tài toa triển miếu đường
Thêm gặp Khúc Xương Khôi Việt ấy
Long môn một bận tính danh giương.
Hóa Khoa nữ mệnh rất tốt lành
Tứ đức kiêm toàn tính cách thanh
Thêm gặp cát tinh Quyền Lộc hội
Chồng sang con quý bực tài anh).
* Hóa Khoa nhập hạn cát hung quyết:
Khoa tinh nhị hạn ngộ Văn Xương,
Sĩ tử nhất cử tính danh hương,
Tăng đạo phùng chi đa phú quý,
Thứ nhân phú túc trí điền trang.
(Khoa tinh nhị hạn gặp Văn Xương
Sĩ tử thơm danh ở miếu đường
Tăng đạo mà gặp đều được phúc
Người thường no ấm sắm điền trang).
* Hóa Kị nhập mệnh cát hung quyết
Chư tinh Hóa Kị bất nghi phùng,
Cánh hội hung tinh dũ tứ hung,
Nhược đắc cát tinh lai trợ cứu,
Túng nhiên phú quý bất phong long.
Tham Lang Phá quân cư hãm địa,
Ngộ cát Hóa Kị chung bất lợi,
Nam vi gian đạo nữ dâm xướng,
Gia sát chiếu mệnh vô miên thụy.
Nữ mệnh hóa Kị bản phi kỳ,
Cánh ngộ hung tinh thị họa cơ,
Y thực gian tân bần tiện thậm,
Cát tinh thấu hợp giảm tai nguy.
(Các sao hóa Kị chẳng nên phùng
Thêm gặp hung tinh lại thêm hung
Nếu được cát tinh đến cứu giải
Thoát hiểm nhưng không được ung dung.
Tham Lang Phá Quân cư hãm địa
Gặp cát với Kị trọn bất lợi
Nam là gian đạo, nữ dâm xướng
Thêm sát, trắng đêm chẳng chợp mắt.
Nữ nhân hóa Kị vốn không hay
Thêm gặp hung tinh gốc họa này
Cơm áo gian nan nghèo khổ thậm
Cát tinh hội hợp giảm họa ngay).
* Hóa Kị nhập hạn cát hung quyết:
Kị tinh nhập miếu phản vi lương,
Túng hữu quan tai diệc bất thương,
Nhất tiến nhất thối danh bất toại,
Cánh kiêm ngộ cát bảo an khương.
Nhị hạn cung trung kiến Kị tinh,
Trí tai vi họa tất gia khuynh,
Vi quan thối chức t*o tang lạm,
Tư lại tu phòng cấm trượng hình.
(Kị mà nhập miếu đẹp như thường
Dẫu kiện tụng có, chẳng tổn thương
Có điều tiến thoái danh không toại
Cát tinh gặp được sẽ cát tường.
Trong cung nhị hạn gặp Kị tinh
Gây tai mắc họa khiến gia khuynh
Kẻ quan, mất chức do tham nhũng
Tiểu lại, phải phòng bị trượng hình).
* Địa Kiếp nhập mệnh hạn cát hung quyết
Địa Kiếp tòng lai chủ phế tật,
Mệnh trung tương ngộ đa thu tức,
Nhược ngộ Dương Hỏa tại kỳ trung,
Tân khổ trì gia phòng nội thất.
Kiếp tinh nhị hạn nhược phùng chi,
Vị miễn đương niên hữu họa nguy,
Thái Tuế xâm phạm đa tật ách,
Quan Phù tinh ngộ hữu quan phi.
(Địa Kiếp sinh phùng thường lắm tật
Nỉ non nức nở suốt đời ai
Nếu gặp Hỏa Kình ngay cung Mệnh
Vất vả sớm hôm cáng toàn gia.
Kiếp tinh nhị hạn nếu tương phùng
Chẳng thoát trong năm có họa hung
Thái Tuế xâm phạm nhiều tật ách
Gặp sao Quan Phù có trát gọi).
* Địa Không nhập mệnh hạn cát hung quyết
Mệnh tọa Không Vong hảo xuất gia,
Văn Xương Thiên Tướng thực kham khoa,
Nhược phùng tứ sát đồng thân mệnh,
Thụ ấm thừa ân phúc khả giai.
Không Vong nhập hạn phá điền trang,
Thê tử tu đương hữu tổn thương,
Tài bạch bất duy đa bại tổn,
Cánh ưu thọ mệnh nhập tuyền hương.
(Mệnh tọa Không Vong làm đạo tăng
Gặp Xương cùng Tướng lộc thêm tăng
Nếu cùng Tứ Sát nơi Thân Mệnh
Thụ ấm thừa ân phúc được đẹp
Không Vong nhập hạn phá điền trang
Mất vợ tổn con thật bẽ bàng
Tài sản đã hao còn mất sạch
Thêm lo thọ mệnh xuống suối vàng).
* Kiếp Không cùng nhập mệnh hạn quyết
Kiếp không vi hại tối sầu nhân,
Tài trí anh hùng ngộ nhất thân,
Chích hảo vi tăng tiên học thuật,
Đôi kim tích ngọc dã tu bần.
Cực cư Mão Dậu Kiếp Không lâm,
Vi tăng vi đạo phúc hưng long,
Nhạc hưởng sơn lâm hữu sư hiệu,
Phúc thọ song toàn đáo cổ linh.
Kiếp Không nhị hạn tối quai trương,
Hạn đáo tư niên dã bất cường,
Hạng Vũ anh hùng tằng táng quốc,
Lục Châu phùng thử trụy lâu vong.
(Kiếp Không làm hại khiến người lo
Anh hùng tài trí một đời gặp
Chỉ đành tăng đạo học thuật trước
Vàng bạc chồng chất cũng thành nghèo.
Tử Vi Mão Dậu Kiếp Không xâm
Theo đạo tăng thì phúc được thâm
Vui hưởng núi rừng hiệu sư phụ
Song toàn phúc thọ tới chung thân.
Kiếp Không nhị hạn rất tai ương
Hạn đến năm ấy kém bất thường
Hạng Võ anh hùng mà mất nước
Lục Châu gặp chúng chết thảm thương).
* Thiên Thương Thiên Sứ nhập hạn cát hung quyết
Hạn trung Thiên Hao hiệu Thiên Thương,
Phu Tử đương thì dã tuyệt lương,
Thiên Sứ hạn lâm câu bất cát,
Thạch Sùng hào phú phá gia vong.
(Thiên Hao thủ hạn xưng Thiên Thương
Khổng Tử khi ấy hết sạch lương
Thiên Sứ hạn lâm cũng chẳng tốt
Thạch Sùng giàu thế cũng ra đường).
* Kình Dương nhập mệnh hạn cát hung quyết
Lộc tiền nhất vị vi Dương Nhận,
Thượng tướng phùng chi phúc lộc gia,
Cánh đắc quý nhân tương thủ chiếu,
Binh quyền vạn lý tráng hoàng gia.
Kình Dương thủ mệnh tế thôi tường,
Tứ mộ sinh nhân miễn tai ương,
Nhược nhiên Tử Phủ lai tương hội,
Phú quý vinh hoa phúc thọ trường.
Kình Dương gia sát tối vi hung,
Nhị hạn hưu giáo lạc hãm phùng,
Khắc tử hình thê do vị liễu,
Đồ lưu biếm phối khứ tòng nhung.
Kình dương nhất diệu bất kham lâm,
Khẩu thiệt quan tai họa hoạn xâm,
Tài tán nhân ly đa khốn phạp,
Sở ngộ sở tác bất như tâm.
(Cung ngay trước Lộc an Kình Dương
Thượng tướng gặp là phúc thịnh xương
Thêm được Quý nhân tương thủ chiếu
Binh quyền vạn dặm tựa quân vương
Kình Dương thủ mệnh xét cho tường
Tứ Mộ năm sinh miễn tai ương
Nếu gặp Tử Phủ đến tương hội
Phú quý vinh hoa phúc thêm trường.
Kình Dương thêm sát cực kỳ hung
Nhị hạn đừng có lạc hãm cùng
Hình khắc vợ con vaanc chưa đủ
Sung quân, lưu lạc chẳng ung dung.
Kình Dương sao ấy chớ lâm vào
Khẩu thiệt quan tai họa hoạn lao
Người đi tiền mất nhiều khốn khổ
Gặp nó sự việc chẳng toại lòng).
* Đà La nhập mệnh hạn cát hung quyết
Đà La mệnh nội tọa trung tồn,
Cánh hỉ nhân sinh tứ mộ sinh,
Tái đắc Tử Vi Xương Phủ hợp,
Tài lộc phong hậu bá thanh danh.
Hạn ngộ Đà La sự diệc đa,
Tất nhiên nhẫn nại yếu khiêm hòa
Nhược vô cát diệu đồng tương hội,
Tu giáo nhất mộng nhập Nam Kha.
(Đà La tọa ở tại Mệnh cung
Thêm mừng người ở tứ Mộ phùng
Lại được Tử Vi Xương Phủ hợp
Tài lộc tràn đầy danh tiếng hưng.
Hạn gặp Đà La lắm việc ra
Tất nhiên nhẫn nại để khiêm hòa
Nếu vô cát diệu cùng tương hội
Tan tành một giấc mộng Nam Kha).
* Dương Đà nhập mệnh hạn tổng quyết
Nhị diệu hưu giáo mệnh vận phùng,
Bất hành thiện sự định vi hung,
Túng nhiên hóa cát vô thành bại,
Nhược ngộ hung tinh hạ tiện cùng.
Giáp Thân giáp Mệnh hữu đà dương,
Hỏa linh không kiếp hựu lai thương,
Thiên lộc bất phùng sinh vượng địa,
Hình thê khắc tử bất vi lương.
Thiên la địa võng ngộ dương đà,
Nhị hạn phùng chi họa tất đa,
Nhược thị mệnh trung tinh chủ nhược,
Nhu giáo hồn phách kiến diêm la.
Dương đà điệp tinh mệnh nan đào,
Thất sát trọng phùng họa tất t*o,
Nhị hạn câu phùng vu hãm địa,
Thập sinh cửu tử bất kiên lao.
Dương đà nhị diệu hạn trung phùng,
Tứ mộ sinh nhân phúc khí long,
Cánh đắc tử vi xương phủ hội,
Phương vi tài lộc thị phong doanh.
(Mệnh vận mà gặp hai sao ấy
Chẳng làm việc thiện chỉ làm hung
Nếu như hóa cát thì không bại
Còn gặp hung tinh hạ tiện cùng
Kề Thân giáp Mệnh có Kình Đà
Hỏa Linh Không Kiếp lại tham gia
Thiên Lộc chẳng gặp được vượng địa
Hình khắc vợ con thực xấu xa
Kình Đà trùng điệp khó thoát sao
Nhị hạn mà gặp hoạn nạn t*o
Nếu như trong mệnh mà yếu ớt
Nên biết hồn phách gặp Diêm Vương.
Kình Đà nhị diệu hạn gặp phải
Ngưởi tuổi tứ Mộ phúc khí tốt
Nếu mà Tử Vi Xương Phủ hội
Liền phát tài lộc được tràn đầy).
* Hỏa Tinh nhập hạn cát hung quyết
Hỏa Tinh đắc địa hạn trung phùng,
Hỉ khí doanh môn bách sự thông,
Sĩ hoạn phùng chi giai phát phúc,
Thường nhân đắc thử tài phong long.
Hỏa Tinh nhất tú tối quai trương,
Vô sự quan tai nháo nhất trường,
Khắc hại lục thân ứng bất miễn,
Phá tài gian khổ miễn tây hoàng.
(Hỏa Tinh đắc địa hạn cung phùng
Hỉ khí đầy nhà trăm sự thông
Kẻ quan gặp được thì phát phúc
Thường dân có nó lộc tài hưng.
Hỏa Tinh sao ấy rất bất thường
Tự nhiên tai vạ loạn công đường
Chẳng tránh được khắc lục thân vậy
Phá sản, gian khổ, thoát bi thương).
* Linh Tinh nhập hạn cát hung quyết
Hạn chí Linh Tinh sự nhược hà,
Tham Lang tương ngộ phúc hoàn đa,
Cánh gia nhập miếu phùng chư cát,
Phú quý thanh dương xứ xứ ca.
Linh Tinh nhất tú bất khả đương,
Thủ lâm nhị hạn tất điên cuồng,
Nhược vô cát diệu lai tương chiếu,
Vị miễn chiêu tai nhạ họa ương.
(Hạn đến Linh Tinh sự thế nào
Tham Lang hội hợp phúc dồi dào
Lại thêm nhập miếu cùng cát diệu
Phú quý lẫy lừng mọi chốn khen.
Linh Tinh ác diệu chẳng thể đương
Thủ lâm nhị hạn tất điên cuồng
Nếu vô cát diệu tới cứu giải
Chẳng thoát chiêu họa rước tai ương)
* Thiên Hình nhập mệnh hạn cát hung quyết
Thiên hình vị tất thị hung tinh,
Nhập miếu danh vi thiên hỉ thần,
Xương khúc cát tinh lai thấu hợp,
Đnh nhiên hiến sách đáo vương đình.
Hình cư dần thượng tịnh dậu tuất,
Cánh lâm mão địa tự quang vinh,
Tất ngộ văn tinh thành đại nghiệp,
Chưởng ác biên cương bách vạn binh.
Tam bất liễu hề hiệu thiên hình,
Vi tăng vi đạo thị cô tinh,
Nhận khốc nhị tinh giai hội cục,
Chung thị nan đào hữu tật nhân.
Thiên hình chi diệu thử tinh đáo,
Tất cánh vô năng chủ xuất gia,
Nhược ngộ cát tinh vô miếu vượng,
Dã tu lưu lạc tại thiên nhai.
Nhị hạn thiên hình bất khả phùng,
Như đồng nhật tú khả hưởng thông,
Nhược hoàn kiếp nhận lai tương thấu,
Sát khí đằng đằng nhất mệnh chung.
(Thiên Hình chưa hẳn là hung tinh
Nhập miếu tên gọi Thiên Hỉ thần
Hội với Xương Khúc cùng cát diệu
Chắc chắn dâng biểu tới triều đình.
Hình cư Dậu Tuất cùng Dần cung
Lại lâm Mão địa hiển quang vinh
Gặp được văn tinh thành đại nghiệp
Chấp chưởng biên cương trăm vạn binh.
Ba thứ không có, tên Thiên Hình
Làm Tăng, làm Đạo, là Cô tinh
Kình Khốc nhị tinh mà tụ hội
Kết cục khó tránh tàn tật thân.
Thiên Hình sao ấy mà gặp phải
Sẽ khiến khó khăn, chủ xuất gia
Nếu gặp cát tinh chẳng miếu vượng
Cũng thành lưu lạc chốn chân trời.
Nhị hạn Thiên Hình chớ nên gặp
Nếu cùng Nhật tú có thể hanh
Còn gặp Kiếp Kình cùng tụ tập
Sát khí đằng đằng mệnh có toàn).
* Thiên Diêu nhập mệnh hạn cát hung quyết:
Thiên diêu cư tuất mão dậu du,
Cánh nhập song ngư nhất tinh cầu,
Phúc hậu sinh thành đam tửu sắc,
Vô tai vô ách độ xuân thu.
Thiên diêu tinh dữ bại tinh đồng,
Hiệu viết nhân gian nhất trửu hung,
Tân khổ mang mang quá nhất thế,
Bất tằng an dật tại gia trung.
Thử tinh nhập miếu định vi tường,
Vận hạn tương phùng tối cát xương,
Cánh ngộ hiền thê thiêm phúc lộc,
Thiên trường địa cửu thọ cao cường.
Mệnh thân ngẫu nhĩ trị thiên diêu,
Luyến sắc tham hoa tính khí hiêu,
Thử diệu nhược cư sinh vượng địa,
Vị đăng cực phẩm diệc phong t*o.
Gia sát thiên diêu nhập quan lộc,
Hư đa thực thiểu thường bất túc,
Vận hạn tật ách nhược phùng chi,
Trùng trùng hiếu phục ai ai khốc.
(Thiên Diêu ở Tuất Mão Dậu cung
Thêm nhập Hợi cung một sao mong
Phúc hậu sinh thành mê tửu sắc
Vô tai vô họa trải Xuân Thu
Thiên Diêu ở với bại tinh cùng
Hiệu viết người ta tính kiêu căng
Bình sinh cay đắng một đời vậy
Chẳng được an vui với gió trăng
Sao ấy nhập miếu lại cát tường
Vận hạn tương phùng rất hưng vượng
Thêm gặp hiền thê, thêm phúc lộc
Tuổi thọ lại cao cùng trời đất
Người ta đôi lúc gặp Thiên Diêu
Luyến sắc tham hoa tính hung liều
Nếu mà sao ấy sinh vượng địa
Dù đăng cực phẩm cũng phong t*o
Thiên Diêu thêm sát nhập Quan Lộc
Hư nhiều thực ít, thường thiếu thốn
Vận hạn tật ách mà gặp phải
Trùng trùng hiếu phục khóc than hoài).
* Đương niên Thái Tuế quyết
Thái tuế đương đầu bất khả đương,
Thủ lâm cung hạn yếu thôi tường,
Nhược vô cát diệu lai tương trợ,
Vị miễn quan tai nháo nhất tràng.
(Đương đầu Thái Tuế thực khó khăn
Thủ lâm cung hạn xét cho kỹ
Nếu thiếu cát tinh đến tương trợ
Chẳng tránh quan tụng loạn công đường).
81. Toát yếu lục vấn (Tóm tắt sáu điều hỏi)
Ngọc Thiềm Tử hỏi tiên sinh viết đẩu số nhiều vậy, thế toát yếu là gì?
Đáp nói: Phàm người ta sau khi an Thân lập Mệnh thì khán xem Thân Mệnh Lộc Mã có lạc Không Vong hay không, Triệt Không tối khẩn, Tuần Không thứ chi. Sao Mệnh chủ là quan trọng, sao Thân chủ thứ chi. Trước tiên cần xem Đế Tướng đắc địa như thế nào, mới có thể luận quý tiện. Cần xem Tham Vũ có triền độ ra làm sao và xem các tinh thần tốt xấu như thế nào. Như Đế củng Tướng thì như vua lại phải đi cung kính với tôi thần, Nhật Nguyệt mà phản bối, Tài Hao đồng cư, thì luận là bác tạp. Nếu mà Thân Mệnh phản bối phùng sát tinh thì luận là bần tiện vậy.
Hỏi rằng định họa phúc ra sao?
Đáp nói: Lấy Thân Mệnh hợp lại, nếu như Thân số cát là thượng cục, còn hung là hạ cách, một hung một cát thì luận là bác tạp, họa phúc quyết đoán như vậy.
Lại nói: Thái Âm Văn Xương bị khắc chế thì phản chuyển thành không còn phúc, nếu cư miếu vượng thì tất phú quý.
Lại hỏi rằng, nói phú quý đã định nhưng lấy gì để biết sinh tử?
Đáp nói: Trước tiên xem đại vận, sau đó xem tiểu hạn, đại vận suy thì mười năm gian khổ hoạn nạn, tiểu hạn vượng thì bất quá chỉ là một năm tươi tốt mà thôi. Nếu luận dinh tử thì trước tiên xem Mệnh cung có Sát tinh Thái Tuế Lưu Sát giao hội đối xung như thế nào, nhị hạn Đế Lộc Không Vong thụ hãm ra sao, nếu như Đế Tướng Lộc Tồn tam hợp thì có thể giải, giáp bên cũng đảm bảo an toàn.
Lại hỏi rằng, nam mệnh áp dụng như thế nào, nữ mệnh áp dụng ra sao, xin hỏi cách luận về nữ mệnh trước.
Đáp nói: Nam mệnh với Nữ mệnh không giống nhau, tinh thần và mệnh cũng khác biệt, như Nữ mệnh lấy Quan Lộc Tướng Mạo (Phụ Mẫu) Nô Bộc là hãm cung, lấy Điền Tài là thứ cường cung, lấy Phúc Đức Phu Tử làm chính cường cung. Phàm những thứ cư vào nơi sinh vượng mà không tốt đẹp, nhưng gặp Không Vong thì lại phản chuyển thành cát lợi. Ngoài Thân Mệnh lại khán xem thủ hay tránh cả ba sao Đào Hoa Thất Sát Thiên Hình và xem Điền Tài Tử Tức Phu Phụ Phúc Đức mà luận, như thế mới không phạm sai lầm. Nếu như sát tinh đơn thủ Phúc Đức cũng dễ làm tỳ xướng.
Lại hỏi rằng, cách cục đã định xong thì tính nết như thế nào?
Đáp nói: Nếu lấy tính nết mà suy cho tường tận có thể dùng Chính Tinh thủ cung, như Thân Mệnh có một sao gấp gáp một sao trì hoãn thì đoán người đó bẩm tính thất thường, tốt xấu không bó buộc, theo gió đuổi mây. Nếu cát tinh đến thủ Thân Mệnh thì bẩm phú tính nhân từ đôn hậu, nếu sát tinh thủ Thân Mệnh thì bẩm tính ác ngược cuồng bạo, càn rỡ man rợ, khó hòa hợp. Bên cạnh đó lại phải xem ngũ hành sinh khắc để mà suy cho tường tận kỹ càng.
Lại hỏi rằng, Ngũ Hành áp dụng như thế nào?
Đáp nói: Trước tiên xem then chốt ở sinh khắc chế hóa, thứ đến xem ở tại cung nào. Như Thất Sát hỏa vậy, tại Dần chính là chỗ của mộc, mộc có thể sinh hỏa. Hay như Vũ Khúc là kim, nếu cùng với Thất Sát đồng độ thì Vũ Khúc là tài tinh nhưng vô dụng vậy, cứ thế mà suy luận. Như kim nhập vào các chỗ hỏa đều là bị quản chế, như kim nhập vào các chỗ thổ đều là đắc địa.
82. Năm hung thần
Thiên Thương, Thiên Sứ, Tấu Thư, Trực Phù, Tướng Quân.
(QNB chú: Độc giả lưu ý, các sao Tấu Thư, Trực Phù, Tướng Quân này còn được gọi là “phi thiên tam sát” chúng được an theo Địa Chi năm, chứ không phải các sao thuộc vòng Bác Sĩ).
Phàm năm hung thần này không nên phạm vào nhiều, các ác sát chớ nên tụ tập hội vào, thêm tuế hạn hội hợp là chết, nếu như lưu niên nhị hạn phạm vào một hai vị đó chỉ tổ có tai vạ nặng, tương hỗ thêm nhị hạn thái tuế tụ tập hội hợp cát tinh thì còn có phúc, gặp hung tinh nhất định sẽ hung, có thêm hung tinh tụ tập giáp bên Thân Mệnh thì tai ương rất nặng.
Phàm luận nhân mệnh có cân nhắc tới hai giờ mà phải tường tận, giờ Tý có 10 khắc, 5 khắc đầu thuộc đêm ngày hôm trước, 5 khắc sau thuộc giờ Tý sáng ngày hôm nay.
83. Bách tự thiên kim quyết (bài quyết trăm chữ ngàn vàng)
Xu khố tọa mệnh
ngộ cát phú quý thủy chung hanh thông
Cơ nguyệt đồng lương phúc thọ
Nhật nguyệt tả hữu trường sinh
(Sao Xu, ngôi đứng đầu chòm Bắc Đẩu, sao Thiên Khố mà tọa mệnh
Gặp cát thì được hưởng phú quý, trước sau đều hanh thông
Cơ Nguyệt Đồng Lương thì chủ về phúc thọ
Nhật Nguyệt Tả Hữu thì chủ trường sinh)
Sát ngộ chung tu tiến thoái
vũ phá cát hóa tranh vanh
tham trinh chủ viên tính liệt
xương khúc nhập miếu khoa danh
(gặp Sát thì kết cục tiến thoái chậm trễ
(thấy) Vũ Phá được cát hóa thì cao ngất
(thấy) Tham Trinh làm chủ cung viên thì tính xấu
(thấy) Xương Khúc nhập miếu thì chủ khoa danh)
Lộc tồn đáo xứ giai linh
tối phạ dương hỏa đà linh
cự hóa cát tú phú quý
đồng hung dã bất xương vinh
(Lộc tồn đến nơi nào cũng là uy phúc
rất e ngại Kình Đà Linh Hỏa
Cự mà hóa cát thì phú quý tương tự
nhưng gặp hung thì chẳng được vẻ vang thịnh vượng).
Khôi việt phù củng phát đạt
nhất sinh cận quý công danh
cục trung tối hiềm không kiếp
chư tinh bất khả đồng cung
(Khôi Việt mà phù trợ củng chiếu thì phát đạt thành công
một đời được công danh, được kề cận người sang quý
Trong cách cục rất ghét gặp phải Kiếp Không
vì chúng là cặp mà các sao khác đều không thể ở cùng được)
Thiên kim đoán quyết mạc tiết ngu nhân.
(Bài quyết đoán ngàn vàng, đừng tiết lộ cho thằng đần nhé).
84. Luận về giáp hợp
Đế vương không thể bị cô lập, Phụ Bật không thể đơn hành, nếu như đầy đủ tại các cung đối chiếu tam hợp giáp cung Đế Tướng thì mới thành công được. Mặt khác nếu như đơn thủ mà cư ở trước sau cung Tài Bạch, gặp cả Nhật Nguyệt thì luận là giàu có. Hạn nếu gặp bỗng phát phi thường, nhị hạn gặp Thân Mệnh có sát tinh theo năm theo tháng thì hung họa vô cùng.
85. Luận đại hạn mười năm họa phúc như thế nào
Nếu như cung phận tinh triền gặp toàn cát tinh miếu vượng đắc địa, không có Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không, trong vòng mười năm đó chủ lưỡng xứng về cả tiền tài nhân sự.
Nếu như tinh triền cát mà trong hạn có Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không Hóa Kị đi kèm thì thành bại bất nhất.
Nếu như tinh triền hãm hãm địa, gặp Kình Đà Linh Hỏa Kiếp Không Hóa Kị, lại thêm lưu niên ác sát tụ tập thì quan tụng thị phi tử vong có thể đến trước mắt.
Nếu như xét hạn kỳ thời gian của đại hạn, cung phận có nhiều cát tinh thì 5 năm đầu đoán cát lợi còn 5 năm sau thì hòa bình. Như sát tinh nhiều thì 5 năm đầu đoán tai vạ còn 5 năm sau lại ít nhiều phát phúc.
Đại hạn nếu hễ thấy cát nhiều thì vô tai vô họa, còn sát lắm thì tai vạ nhiều, mất người, phá tài, bất lợi.
86. Tam phương gia hội cách cục
Phàm người ta an Mệnh thì cần linh động xem Chính Tinh bản cung miếu địa, xem thêm tam phương có cát tinh và hóa cát thì là toàn mỹ. Nếu như người có sát tinh xâm phạm phá cục thì đoán là trung cách. Nếu Mệnh vô chính diệu, tam phương có cát hội thì nhập cách, không có cát thì không thành cục. Lại như Mệnh không có cát tinh mà ngược lại có sát tinh Hóa Kị trong triền độ, lại đều không nhập miếu thì là hạ cục. Dẫu tam phương có cát thì cũng chẳng ăn thua, trước ít sau nhiều thành bại yểu chiết. Như sao tại Mệnh hãm địa lại Hóa Kị và thêm Kình Hỏa Kiếp Không xung thủ thì hình thương mang tật.
Phàm khán Tật Ách cung mà có sát thì cũng như thế, chủ từ bé có tàn tật, sau đó mới khán vận hạn xem có nhiều sát thì cũng vậy, không có cát thì luận là hạ cục.
Phàm xem Thái Tuế gặp ác sát lâm hạn, đó là nguyên cớ của việc biến đổi tốt xấu, nếu như nhị hạn lại gặp nhiều hung sát thì rất đáng lo ngại.
Phàm luận chư tinh tọa ở 12 cung, có thêm thập can Lộc nguyên triều thủ, lại đồng thời có Hóa Khoa Quyền ở trong Mệnh thì đó là số rất quý, làm quan hưởng phúc, vợ con tài lộc đều toàn mỹ, đoán là chung thân phúc hậu. Nếu như bước hạn tới gặp thì cần xem ở trên cung nào, gặp cát thì chủ phát tài lộc, gặp hung cũng không phải là tổn hại to lớn, đó là đều do Mệnh tráng Thân cường vậy.
Phàm người ta mà sao ở Mệnh là phản bối hóa Kị thì cả đời khó có thể phát đạt, trong đó có Nhật tại Dậu Tuất Hợi và Nguyệt tại Thìn Tị Ngọ, đoán những người đó đừng nên ở bản quản mà chỉ xuất ngoại ly tổ. Mệnh yếu nhược mà có Tài gặp hóa cát thì chiểu theo Tài Quan mà luận.
Phàm người ta sinh ra đời được phú quý, chẳng bị phá bại, tới già vẫn hưởng phúc, những người đó tất có Mệnh Hạn tương hợp từng bước tiếp nối, tinh thần nhập miếu địa.
Phàm người ta sinh ra được khoái lạc hưởng phúc, vợ đẹp con sang, nhưng đến trung niên lại gặp họa hại, hao người mất của hoặc bản thân tang vong, tất chính là hạn bộ không tương phù tương trợ, hoặc xuất hạn giao hạn (đến hạn tới hạn) tự cát xu hung, trung niên phạm sát tinh xung chiếu thủ chiếu.
Phàm người ta sinh ra đã hèn kém, tuổi trẻ phải trải tận đắng cay, cho đến trung niên cuối đời được bình địa thăng đằng (xuôn xẻ như đi trên đất bằng và thăng tiến phấn phát), tài lộc toại tâm, uy quyền xuất chúng, những người đó đều do sinh tại trung cục, đến trung niên cuối đời thì hạn bộ có các sao miếu vượng cường thịnh, cho nên trước khó sau dễ vậy.
Lộc triều viên, như Giáp thì Lộc đến Dần, những kiểu như người sinh năm Giáp mà Mệnh an tại Dần. Những kiểu ấy luận Văn Xương Văn Khúc tại Tị Hợi là dương địa (QNB chú: chữ “dương” 陽 không rõ muốn ám chỉ gì? có thể là ám chỉ sự tỏa sáng), chẳng quý thì cũng giàu. Những kiểu ấy mà Tham cư Tị Hợi gặp Xương Khúc, dẫu có phú quý cũng không bền. Nữ nhân hạn phùng Tang Điếu thì việc sinh đẻ tất sẽ chợt xảy ra tai vạ, họa chẳng nhỏ, người nam thì không luận thế. Tử Vi cư hai cung Thìn Tuất, mà Thái Tuế nhị hạn gặp ở đó thì bất kể là già trẻ gái trai đều chủ tai hung khẩu thiệt, tiền mất người ly tán có tang vong trước mắt, nếu không thì bản thân tất sẽ gặp đại nạn.
Tị Hợi Tử Phủ Tướng gia hội,
Tả Hữu phù trì phúc bất khinh,
Cánh gia cát hóa vi toàn mỹ,
Phú quý song toàn đáo chung thân.
(Tị Hợi Tử Phủ Tướng tụ hội
Tả Hữu phù trì phúc chẳng ít
Thêm được cát Hóa là toàn mỹ
Phú quý đôi đàng vẹn cả đời).
Nếu như Đồng Lương ở Tị Hợi mà thủ Mệnh thì nam thường phiêu lãng, nữ thường dâm loạn xướng kỹ.
Đấu sổ nhất lý tối nan minh,
Tổng tại cao nhân nhất chưởng trung,
Nam nữ họa phúc y kinh đoán,
Nữ bỉ nam phương phụ bất đồng,
Tiên thôi mệnh nội chư thần sát,
Vượng hậu chung gia số nội tinh,
Tiểu nhi quan sát hành tầm biến,
Sinh khắc chế hóa biện phân minh.
(Đẩu Số cái lý rất khó lường
Gom cả trong tay của người tài
Nam nữ họa phúc theo sách đoán
Nữ so với Nam chẳng tương đồng
Trước xem trong Mệnh các thần sát
Sau đó thêm số của các sao
Trẻ nít cần tìm xem Quan Sát
Sinh khắc chế hóa biện luận tinh).
87. Huyền Vi luận
Hi Di tiên sinh viết:
Đẩu số chi liệt chúng tinh, do đại dịch chi phân bát quái,
bát quái phi thoán hệ bất minh,
ngũ tinh phi giảng minh hà thố,
thị dĩ quan đẩu số giả, tái tam thẩm động tĩnh chi cơ,
(Đẩu Số bày ra chúng tinh, do đại Dịch phân chia thành Bát Quái,
Bát Quái mà thiếu Thoán từ (lời luận đoán) thì cũng chẳng rõ nghĩa,
Ngũ Tinh mà không được giảng giải kỹ thì dùng làm sao được,
Môn xem Đẩu Số này đây, luôn xét đến động tĩnh của cơ trời).
Đệ nhất biện tân chủ chi phân, động tĩnh tuần hoàn bất dĩ,
chủ tân canh điệp vô câu,
chủ nhược vô tình, hà tân chi hữu,
tân bất năng đối, hà túc thủ tai!
(Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét, Động-Tĩnh tuần hoàn không dứt,
Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định,
Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được,
Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm khách được!)
Quý bỉ Dương Đà, duy thị Lộc Tồn chi hảo ác, tiếu ngô Nhật Nguyệt dã.
Tư Không Kiếp chi hưng vong, sát hữu sát nhi vô hình, tuy sát hữu cứu; hình hữu hình nhi dị đan, chung thân bất khắc.
(Tự thẹn thay Kình Đà, chỉ trông coi tốt xấu của Lộc Tồn, mà (lại dám) cười Nhật Nguyệt ta vậy.
Ngẫm về hưng vong của Không Kiếp, sát thì có sát (nhưng) mà không Hình (khắc) cứng nhắc, tuy sát mà lại có thể cứu chữa; hình thì có hình nhưng đơn giản dễ thay đổi, (về lâu dài) cả đời sẽ không khắc).
Hỏa Tinh vượng cung vi phú luận, Dương Đà đắc lệnh khởi hung thần?
Lưỡng lân gia vũ thượng khả xanh trì, đồng thất dữ mưu tối nan phòng bị.
(Hỏa tinh ở vượng cung thì luận là phú, Kình Đà chỗ đắc lệnh há có còn là hung thần nữa sao?
Kẻ hung bạo ở ngay sát vách đôi bên nhà mình thì cũng còn có thể miễn cưỡng chống đỡ lại, còn người cùng nhà mà có mưu hiểm đen tối thì thực là khó phòng bị).
Cân hỏa phần Thiên Mã, trọng Dương trục Lộc Tồn.
Kiếp Không thân thích vô thường, Quyền Lộc hành tàng mỹ định.
Quân tử tại Khôi Việt, tiểu nhân dã Dương Linh.
Hung bất giai hung, cát vô thuần cát.
(Cân đo sức nóng, nghị lực của Thiên Mã, coi trọng trục của Kình Dương Lộc Tồn.
Kiếp Không thì coi thân thích là vô thường, Quyền Lộc thì định là tác phong cử chỉ tươi đẹp.
Quân tử (xét ở) tại nơi Khôi Việt, tiểu nhân thì xét ở Dương Linh.
Hung thì không có cái gì hoàn toàn hung, Cát thì cũng chẳng có cái gì thuần là cát).
Chủ cường tân nhược, khả bảo vô ngu.
Chủ nhược tân cường, hung nguy lập kiến.
Chủ tân đắc thất lưỡng tương nghi,
hạn vận Mệnh Thân đương hỗ kiến.
(Chủ cường Khách nhược, thì có thể đảm bảo là chẳng có gì phải lo ngại.
Chủ nhược Khách cường, thì thấy ngay được là hung hiểm nguy hiểm.
(Phải xem) Chủ-Khách, chỗ hay chỗ dở, đôi đàng tương ứng đối đãi lẫn nhau,
Vận hạn Mệnh-Thân cũng đối đãi tương hỗ lẫn nhau).
Thân Mệnh tối hiềm Dương Đà Thất Sát, ngộ chi vị miễn vi hung.
Nhị hạn thậm kỵ Tham Phá Cự Trinh, phùng chi định nhiên tác họa.
Mệnh ngộ Khôi Xương đương đắc quý, hạn phùng Tử Phủ định tài đa.
(Thân-Mệnh rất sợ gặp Dương Đà Thất Sát, gặp thì khó tránh được hung hiểm.
Nhị hạn tối kị Tham Lang Phá Quân Cự Môn Liêm Trinh, gặp thì nhất định sẽ tác họa.
Mệnh gặp Khôi Xương được nhận (quan) Quý, Hạn phùng Tử Phủ xác định đó là lúc đa tài (đến lúc gặp thời để mà được thi thố với đời)).
Phàm quan nữ nhân chi mệnh, tiên quan Phu Tử nhị cung,
nhược trị sát tinh, định tam giá nhi tâm bất túc, hoặc phùng Dương Đà, tu đề khốc nhi lệ bất can.
(Phàm xem mệnh Nữ nhân, trước tiên xem ở hai cung Phu và Tử Tức,
nếu gặp sát tinh, định là nhiều lần xuất giá mà lòng không yên, hoặc phùng Dương Đà thì đó là khóc con cạn nước mắt).
Nhược quan nam mệnh, thủy dĩ Phúc Tài vi chủ, tái thẩm Thiên Di như hà,
nhị hạn tương nhân, cát hung đồng đoán.
(Khi xem Nam mệnh, khởi đầu lấy Phúc và Tài cung làm chủ, sau đó xét Thiên Di xem thế nào,
nhị hạn (có) nguyên nhân hỗ trợ ra sao, (từ đó mới) cùng đoán ra cát hung như thế nào).
Hạn phùng cát diệu, bình sinh vận dụng hòa hài;
mệnh tác hung hương, nhất thị cầu mưu trở ngữ.
(Hạn phùng cát diệu thì lúc bình sinh được mọi sự hoạt động hài hòa;
Mệnh lạc đến chỗ hung thì đúng là một thân mưu cầu mà toàn gặp gập ghềnh trở ngại).
Liêm Lộc lâm mệnh, nữ đức thuần âm trinh khiết chi đức;
Đồng Lương thủ mệnh, nam đắc thuần dương trung chính chi tâm.
(Liêm Lộc lâm Nữ mệnh thuần âm thì đức hạnh trinh trắng, thanh khiết;
Đồng Lương thủ Nam mệnh thuần dương thì một lòng trung thành, chính trực).
Quân tử mệnh trung diệc hữu Dương Đà tứ sát,
tiểu nhân mệnh trung khởi vô Khoa Lộc Quyền tinh,
yếu khán đắc viên thất viên, chuyên luận nhập miếu thất hãm.
(Người quân tử thì ở trong cung Mệnh cũng có Dương Đà tứ sát,
Kẻ tiểu nhân thì ai dám bảo là không có Khoa Quyền Lộc ở trong cung mệnh nào,
(Cho nên) trọng yếu phải xem cung viên tốt xấu thế nào, chuyên sâu luận vào các sao nhập miếu hay lạc hãm).
Nhược luận tiểu nhi, tường thôi đồng hạn,
tiểu nhi mệnh tọa hung hương, tam ngũ tuế tất nhiên yểu chiết,
cánh hữu hạn phùng ác sát, ngũ thất tuế tất chí yểu vong.
(Nếu luận số tiểu nhi, phải suy xét thật tường tận về hạn của trẻ con,
Tiểu nhi mà Mệnh ở chỗ hung, thì dăm ba năm tất nhiên sẽ yểu chiết,
Lại thêm hạn phùng ác sát thì dăm bảy năm nhất định yểu vong).
Văn Xương Văn Khúc Thiên Khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân.
Đa học thiểu thành, chỉ vi Kình Dương phùng Kiếp Sát.
Vi nhân hảo tụng, cái nhân Thái Tuế ngộ Quan Phù.
(Có các sao Văn Xương Văn Khúc Thiên Khôi, chẳng đọc thi thư gì cũng là kẻ có tài.
Đa học mà thiểu thành, chỉ vì Kình Dương phùng Kiếp Sát.
Làm người giỏi lý lẽ, giỏi tranh cãi, khéo nói, đó là do Thái Tuế ngộ Quan Phù).
Mệnh chi lý vi, thục sát tinh thần chi biến hóa;
Số chi lý viễn, tế tường cách cục chi hưng suy.
Bắc cực gia hung sát, vi đạo vi tăng;
Dương Đà ngộ hung tinh, vi nô vi bộc.
(Cái Lý tinh vi của Mệnh, phải bám sát lấy sự biến hóa của các sao;
Cái Lý sâu xa của Số, phải xem cho tường tận sự hưng suy của cách cục.
Sao Tử Vi mà bị gia thêm hung sát tinh thì dễ theo đường tăng đạo;
Mệnh có Kình Đà mà gặp phải hung tinh thì dễ thành thân phận kẻ hầu người hạ).
Như Vũ Phá Liêm Tham, cố thâm mưu nhi quý hiển,
gia Dương Đà Không Kiếp, phản tiểu chí dĩ cô hàn.
Hạn phụ vượng tinh, tuy nhược nhi bất nhược;
mệnh lâm cát địa, tuy hung nhi bất hung.
(Như Vũ Phá Liêm Tham, vốn nhờ có mưu sâu mà quý hiển,
Thêm (vào đó) Dương Đà Không Kiếp thì phản chuyển thành chí nhỏ mà cô đơn, nghèo hèn.
Hạn mà hai bên có vượng tinh thì dù hạn có nhược (kém) cũng được cứu giải,
Mệnh lâm vào nơi cát lợi thì dẫu gặp hung cũng chẳng có gì nguy hiểm).
Đoạn kiều tiệt lộ, đại tiểu nan hành;
Mão Dậu nhị Không, thông minh phát phúc.
Mệnh Thân ngộ Tử Phủ, điệp tích kim ngân;
nhị chủ phùng Kiếp Không, y thực bất túc.
(Đại tiểu (hạn) khó khăn gian khổ, khó đi,… là bởi vì “đoạn kiều tiệt lộ” (đây là 1 thành ngữ có nghĩa đen là “cầu bị chặt gãy, đường bị chặn”, nhưng nghĩa bóng ám chỉ việc hành hạn mà gặp phải Tiệt/Triệt lộ thì đó là coi như bị chặn phá, bị ngáng trở, bị gặp khó khăn,…);
Ở cung Mão Dậu mà gặp nhị Không thì lại là thông minh, phát phúc.
Mệnh Thân mà gặp Tử Phủ thì giàu có dồi dào vàng bạc (điệp tích kim ngân);
Nhị chủ (thường chỉ về Mệnh chủ & Thân chủ, nhưng trong trường hợp này thì nên hiểu Nhị Chủ = Tử Phủ) mà gặp Kiếp Không thì thiếu ăn thiếu mặc).
Mưu nhi bất toại, Mệnh hạn ngộ nhập Kình Dương.
Đông tác tây thành, hạn thân t*o phùng Phủ Tướng
Khoa Quyền Lộc củng, định vi phàn quế chi cao nhân.
Không Kiếp Dương Linh, quyết tác cửu lưu thuật sĩ.
(Mệnh hạn mà gặp phải Kình Dương thì mưu sự không xứng ý toại lòng.
Làm giả ăn thật, đánh ở đông mà được ở tây (“đông tác tây thành” đây cũng là 1 thành ngữ) do hạn Thân mà phùng Phủ Tướng.
Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì định là người đó sẽ đỗ cao, thăng quan lớn, phát tài lộc,… được vin cành nguyệt quế.
(Nếu mà gặp) Không Kiếp Dương Linh, thì quyết đoán là đi theo giới cửu lưu thuật sĩ).
Tình hoài thư sướng, Xương Khúc mệnh thân;
Quỷ trá hư phù, Dương Đà hãm địa.
Thiên Cơ Thiên Lương Kình Dương hội, tảo kiến hình khắc vãn kiến cô.
Tham Lang Vũ Khúc Liêm Trinh phùng, thiểu thụ bần nhi hậu thụ phúc.
(Tâm tình dào dạt, thư thả sung sướng, ấy là do Xương Khúc ở Mệnh Thân;
Quỷ quyệt xảo trá, hão huyền chẳng thực, đó là bởi Dương Đà hãm địa.
(Dẫu có có Thiện tinh, Phúc Ấm tinh như) Thiên Cơ Thiên Lương mà hội cùng Kình Dương, thì lúc nhỏ thì hình khắc (với người thân) về già thời cô độc.
(Hoặc có là hung tinh, cô tinh, tù tinh như) Tham Lang Vũ Khúc Liêm Trinh, thì lúc nhỏ tuy nghèo khó vất vả nhưng về già lại được hưởng phúc).
Thử giai đẩu số chi áo quyết, học giả thục chi.
(Đây đều là những bí quyết sâu xa của môn Đẩu Số, học giả nên nắm vững).
88. Chuẩn thằng luận (bài luận mực thước)
Mệnh cư Sinh Vượng định phú quý, các hữu sở nghi.
Thân tọa Không Vong luận vinh khô, chuyên cầu kỳ yếu.
(Mệnh ở chỗ Sinh Vượng định là phú quý, đương nhiên phù hợp.
Thân tọa chỗ Không Vong luận là thăng trầm, đúng như vậy luôn).
Tử Vi đế tọa tại Nam cực bất năng thi công,
Thiên Phủ lệnh tinh tại Nam địa chuyên năng vi phúc.
(Các sao phải ở đúng vị trí của nó, mới là đắc miếu, thế mới tốt, chứ ở sai chỗ là thất hãm thì dẫu có là đế tinh thì chả làm được cái trò trống gì.
QNB chú: Câu này là sử dụng phép ẩn dụ, không thể hiểu theo nghĩa đen được).
Thiên Cơ Thất Sát đồng cung dã thiện tam phân,
Thái Âm Hỏa Linh đồng vị phản thành thập ác.
(Các thiện tinh đồng cung với ác sát hung tinh thì mất đi ba phần mười tính thiện. Cũng như các sao có tính nhu mì mà gặp các sát hung tinh thì cũng trở nên ác độc.
QNB chú: Câu này là sử dụng phép ẩn dụ, không thể hiểu theo nghĩa đen được).
Tham Lang vi ác tú nhập miếu bất hung,
Cự Môn vi ác diệu đắc viên vưu mỹ.
(Tham Lang vốn là hung tinh chủ thiện ác, khi nhập miếu chắc chắn lương thiện,
Cự Môn vốn là ám tinh chủ ám muội thị phi, khi đắc miếu cũng nhất định tốt đẹp).
Chư hung tại khẩn yếu chi hương tối nghi chế khắc,
Nhược tại Thân Mệnh chi vị khước thụ cô đơn.
(Các hung sát tinh ở vào cung quan trọng thì rất cần được khắc chế,
Nếu ở ngay chỗ Thân Mệnh thì lại cô đơn, tịch mịch).
Nhược kiến sát tinh đảo hạn tối hung,
Phúc Ấm lâm chi thứ cơ khả giải.
(Nếu thấy sát tinh tới trong đảo hạn thì rất hung hiểm,
Nhưng có Đồng Lương Cát tinh lâm vào thì có thể giải được).
Đại để tại nhân chi cơ biến, cánh gia tác ý chi thôi tường.
(Đại khái là đều ở tại cái cơ biến, ứng xử của con người, thêm vào dự tính ý nghĩa làm sao để mà đoán cho tinh tường).
Biện sinh khắc chế hóa dĩ định cùng thông,
Khán hảo ác chính thiên dĩ ngôn họa phúc.
(Biện luận về sinh khắc chế hóa mà xác định cái lẽ cùng biến tắc thông,
Xem tốt xấu ngay thẳng chính trực để mà nói về họa phúc).
Quan tinh cư vu Phúc địa cận quý vinh tài,
Phúc tinh cư vu Quan cung khước thành vô dụng.
(Các sao chủ quan lộc quyền chức mà ở cung Phúc thì gần người quyền quý mà giàu có,
Thế nhưng các sao chủ phúc mà ở vào cung Quan thì lại chả có tác dụng gì cả).
Thân mệnh đắc tinh vi yếu, hạn độ ngộ cát vi vinh.
(Thân mệnh có sao đắc cách là quan trọng, đến hạn gặp cát tinh là được vinh hiển).
Nhược ngôn Tử Tức hữu vô, chuyên tại Kình Tù Hao Sát.
Phùng chi tắc hại thê thiếp diệc nhiên.
(Nếu nói về con cái là có hay không, chủ yếu tại vì Kình, Tù, Hao, Sát tinh ở cung Tử Tức.
Gặp chúng ở cung Thê thì cũng dĩ nhiên coi như là hại vợ khắc thiếp mà thôi).
Tướng mạo phùng hung tất đới phá tướng,
Tật ách phùng Kị định hữu uông doanh.
(Tướng Mạo – tức Phụ Mẫu cung – gặp hung sát tinh thì kiểu gì cũng có phá tướng,
Tật Ách cung mà gặp Hóa Kị thì nhất định có bệnh hoặc tật như chân khuềnh, lưng gù).
Tu ngôn định số dĩ cầu huyền,
Cánh tại đồng niên chi tương hợp,
Tổng vi cương lĩnh dụng tác chuẩn thằng.
(Những lời định số để hòng biết cái huyền bí,
Thêm việc tương hợp theo năm nữa,
Tất cả là cương lĩnh để dụng như mực thước).
89. Đẩu số câu suất
Chư tinh cát đa phùng hung dã cát,
Chư tinh ác đa phùng cát dã hung.
(Nhiều cát tinh mà gặp ác tinh thì mất đi tính tốt đẹp,
Nhiều hung ác tinh mà gặp cát tinh thì mất đi tính hung).
Tinh canh triền độ,
Số phân định cục.
(Sao thay đổi tính chất theo vị trí cung nó đi qua trên quỹ đạo của nó,
Số thì được phân định tùy theo cục).
Trọng tại khán tinh đắc viên thụ chế,
phương khả luận nhân họa phúc cùng thông.
(Quan trọng là xem sao miếu đắc, gặp chế hóa thế nào,
mới có thể luận về cái cùng-thông về họa phúc của người ta được).
Đại khái dĩ Thân Mệnh vi họa phúc chi bính,
dĩ căn nguyên vi cùng thông chi cơ.
(Đại khái thì Thân Mệnh là chuôi cán của họa phúc,
lấy căn nguyên làm then chốt của cái sự cùng-thông).
Tử Vi tại mệnh Phụ Bật đồng viên, kỳ quý tất hĩ,
Tài Ấn giáp Mệnh, Nhật Nguyệt giáp Tài, kỳ phú hà nghi.
(Tử Vi đồng cung với Phụ Bật ở mệnh thì tất nhiên sang quý đặc biệt,
“Tài Ấn giáp Mệnh”, “Nhật Nguyệt giáp tài” thì giàu có là chẳng phải nghi ngờ nữa).
Ấm Phúc lâm bất phạ hung xung,
Nhật Nguyệt hội bất như hợp chiếu.
(Ấm tinh Phúc tinh tọa thủ thì không sợ hung tinh xung chiếu,
Nhật Nguyệt đồng cung thì không đẹp như là chúng hợp chiếu).
Tham lang cư Tý nãi vi phiếm thủy đào hoa,
Thiên Hình t*o Tham tất chủ phong lưu hình trượng.
(Tham Lang cư Tý gọi là “Phiếm thủy đào hoa” – chủ lãng đãng đa tình,
Thiên Hình gặp Tham thì chủ vì phong lưu mà mang họa đòn roi).
Tử Vi tọa mệnh khố tắc viết kim dư phủng trất liễn,
Lâm Quan an văn diệu hiệu vi cẩm nhạ thiên hương.
(Tử Vi ở chỗ Mộ khố của Mệnh thì viết là kề bên xe vàng của vua,
Lâm Quan mà an các Văn tinh thì gọi là áo gấm có hương trời).
Thái Âm hợp Văn Khúc ư Thê cung hàn lâm thanh dị,
Thái Dương hội Xăn Xương ư Quan lộc kim điện truyền lô.
(Thái Âm, Văn Khúc ở Thê cung chủ làm quan thanh cao chốn hàn lâm viện,
Thái Dương, Văn Xương ở Quan cung chủ được vua truyền gọi lên điện vàng).
Lộc hợp thủ Điền Tài vi lạn cốc đôi kim,
Tài Ấm cư Thiên Di vi cao thương hào khách,
(Lộc mà thủ hoặc chiếu cung Điền Tài là tiền cả đống, thóc cả kho,
Tài Ấm mà cư Thiên Di là kẻ thương gia giàu có hào phóng).
Hao cư bại địa duyên đồ cái cầu,
Tham hội vượng cung chung thân thử thiết.
(Hao cư bại địa, Mệnh đóng ở đó là số ăn m*y,
Tham ở Tý Ngọ Mão Dậu, lại trúng Vượng cung của Tam Hợp Cục tuổi thì là số trộm cắp).
Sát cư tuyệt địa sinh thành tam thập nhị chi Nhan Hồi,
Nhật tại vượng cung khả học bát bách niên chi Bành Tổ.
(Sát cư tuyệt địa là số yểu, chỉ sống được 32 tuổi như Nhan Hồi,
Nhật ở vượng cung có thể thọ tới 800 năm như ông Bành Tổ).
Cự ám đồng viên vu Thân Mệnh Tật Ách doanh sấu kỳ khu,
Hung tinh giao hội vu Tướng Mạo Thiên Di thương hình kỳ diện.
(Cự với Diêu Đà Kị mà cùng ở Thân Mệnh hay Tật Ách cung thì thân hình gầy và xấu,
Hung tinh hội chiếu Tướng Mạo (Phụ Mẫu) và Thiên Di cung, thì trên người và mặt có thương tật).
Đại Hao hội Liêm Trinh ư Quan Lộc gia nữu tù đồ,
Quan Phù hội Hình Sát ư Thiên Di ly hương viễn phối.
(Đại Hao hội với Liêm Trinh ở Quan Lộc là dễ bị gông xiềng tù tội,
Quan Phù hội Hình Sát tinh ở Thiên Di là lấy chồng/vợ ở phương xa).
Thất Sát lâm ư hãm địa lưu Dương tất kiến tử vong,
Hao Sát kị phùng Phá Quân, Hỏa Linh hiềm phùng Thái Tuế.
(Thất Sát ở chỗ hãm địa, hạn gặp Lưu Kình Dương thì dễ toi mạng,
Hao Sát tinh kị gặp Phá Quân, Hỏa Linh thì chớ có gặp Thái Tuế, gặp thì dễ có tai họa).
Tấu Thư Bác Sĩ tịnh Lưu Lộc dĩ tận hồ cát tường,
Lực Sĩ Tướng Quân đắc Thanh Long dĩ hiển kỳ uy phúc.
(Tấu Thư Bác Sĩ cũng như Lưu Lộc Tồn đều chủ mọi sự tốt đẹp – khi gặp trong hạn,
Lực Sĩ Tướng Quân cùng với Thanh Long là chủ về vinh hiển uy danh, rạng rỡ tổ tông).
Đồng tử hạn nhược thủy thượng phù phao,
Lão nhân hạn suy phong trung nhiên chúc.
Ngộ sát tất kinh, lưu niên tối khẩn.
(Hạn của trẻ con như bọt bèo trên nước,
Hạn của người già như đuốc giữa cuồng phong.
Gặp thêm sát tinh thì đáng sợ, lưu niên hạn càng khẩn trương hơn nữa).
Nhân sinh phát đạt hạn nguyên tối phạ phù trầm,
Nhất thế truân chuyên mệnh hạn phùng hồ bác tạp.
Luận nhi chí thửu doãn hĩ huyền vi.
(Hạn phát đạt của người ta vốn rất sợ thăng trầm, phập phù,
Cả đời mà truân chuyên là bởi Mệnh, Hạn cả có thuần cách gì cả, toàn lẫn lộn cát hung.
Luận được vậy coi như là phù hợp với lẽ huyền vi).
90. Ngọc Thiềm phát vi luận
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
(Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh nói:)
Quan thiên đẩu số dữ Ngũ Tinh bất đồng, án thử tinh thần dữ chư thuật đại dị.
(Xem thấy Đẩu Số với môn Ngũ Tinh có điểm không giống nhau,
từ đây ta thấy về tinh thần cơ bản nó khác nhiều với các thuật khác).
Tứ chính cát tinh định vi quý, tam phương sát củng thiểu vi kỳ;
Đối chiếu hề tường hung tường cát, hợp chiếu hề quan tiện quan vinh.
(Xét tứ chính thấy cát tinh thì định là quý, Tam phương mà sát tinh vây chiếu thì kém đẹp;
Cung đối chiếu cho biết hung, biết cát, cung hợp chiếu cho biết tiện hay là vinh).
Cát tinh nhập viên tắc vi cát, hung tinh thất địa tắc vi hung.
(Cát tinh nhập mệnh, miếu đắc thì sẽ cát lợi, hung tinh mà hãm địa thì chắc chắn sẽ hung).
Mệnh phùng tử vi, phi đặc thọ nhi thả vinh;
Thân ngộ sát tinh, bất đãn bần nhi thả tiện.
(Mệnh gặp Tử Vi thì vừa thọ vừa vinh hoa;
Thân gặp sát tinh thì không những bần mà còn tiện).
Tả Hữu hội ư Tử Phủ, cực phẩm chi tôn;
Khoa Quyền hãm ư hung hương, công danh thặng đặng.
(Tả Hữu hội cùng Tử Phủ thì tôn quý đến cực phẩm,
Khoa Quyền hãm ở chỗ hung thì công danh lận đận).
Hành hạn phùng hồ nhược địa, vị tất vi tai;
lập mệnh hội tại cường cung, tất năng giáng phucs.
(Hành hạn nếu gặp nơi nhược địa thì chưa hẳn đã gặp tai họa,
lập Mệnh ở chỗ cường cung, nhất định sẽ có thể ban phúc).
Dương Đà Thất Sát, hạn vận mạc phùng, phùng chi định hữu hình thương (Kiếp Không Thương Sứ tại nội hợp đoán;
Thiên Khốc Tang Môn, lưu niên mạc ngộ, ngộ chi thực phòng phá hại.
(Vận hạn chớ có gặp Kình Đà Thất Sát, gặp thì tất sẽ bị hình thương (chú rằng có Kiếp Không Thương Sứ trong đó thì cũng hợp đoán vậy),
Lưu niên chớ có gặp Thiên Khốc Tang Môn, gặp thì phải đề phòng trong nhà bị hao tán).
Nam đẩu chủ hạn tất sinh nam,
Bắc đẩu gia lâm tiên đắc nữ.
(Nam Đẩu chủ hạn tất sẽ sinh con trai,
Bắc Đẩu lâm hạn thì sẽ sinh con gái).
Khoa tinh cư hãm địa, đăng hỏa tân cần;
Xương Khúc tại nhược hương, lâm tuyền lãnh đạm.
(Khoa tinh cư hãm địa, thì vất vả chăm chỉ đèn sách sớm khuya,
Xương Khúc ở chỗ nhược thì ẩn mình lãnh đạm nơi rừng núi).
Gian mưu tần thiết, Tử Vi quý ngộ Phá quân;
Dâm bôn đại hành, Hồng Loan sai phùng Tham tú.
(Tử Vi thẹn gặp Phá Quânvì suốt ngày bày kế hiểm mưu gian,
Hồng Loan gặp lầm phải Tham Lang thì hành vi dâm dật).
Mệnh Thân tương khắc, tắc tâm loạn nhi bất nhàn;
Huyền ảo tam cung, tắc tà dâm nhi đam tửu (tức Thiên Diêu tinh).
(Mệnh với Thân mà tương khắc thì tâm loạn nên chẳng được nhàn,
Ba cung mà huyền ảo thì tất sẽ tà dâm cùng ham rượu (chú rằng “huyền ảo” ám chỉ sao Thiên Diêu)).
Sát lâm tam vị, định nhiên thê tử bất hòa;
Cự đáo nhị cung, tất thị huynh đệ vô nghĩa.
(Sát tinh lâm vào tam vị – Phu Thê cung, chắc chắc bất hòa với vợ con,
Cự Môn đến nhị cung – Huynh Đệ cung, thì anh em vô tình vô nghĩa).
Hình sát thủ Tử cung, tử nan phụng lão;
Chư hung chiếu Tài bạch, tụ tán vô thường.
(Hình sát tinh ở cung Tử Tức, khó có được con chăm sóc lúc già;
Các hung tinh chiếu vào Tài Bạch, thì tiền tụ tán vô thường).
Dương Đà thủ Tật Ách, nhãn mục hôn manh;
Hỏa Linh đáo Thiên Di, trường đồ tịch mạc.
(Kình Đà thủ Tật Ách thì mắt kém, mắt đau, mắt mờ,
Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường đời phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ).
Tôn tinh liệt tiện vị, chủ nhân đa lao;
Ác tinh ứng bát cung, nô bộc vô trợ.
(Các sao tôn quý bày vào chỗ thấp kém, thì chủ nhân nhiều gian khổ,
Ác tinh ứng vào cung thứ tám – Nô Bộc cung, thì bạn bè và kẻ dưới chẳng tương trợ được gì cho mình).
Quan Lộc ngộ Tử Phủ, phú nhi thả quý;
Điền Trạch ngộ Phá Quân, tiên phá hậu thành.
(Quan Lộc cung gặp Tử Phủ thì vừa phú vừa quý,
Điền Trạch cung gặp Phá Quân thì trước phá hết sau mới thành được).
Phúc Đức ngộ Không vong Kiếp, bôn tẩu vô lực;
Tướng Mạo gia hình sát, hình khắc nan miễn.
(Phúc Đức cung gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang, không có năng lực,
Tướng Mạo cung, tức Phụ Mẫu cung, mà thêm Hình Sát, thì việc hình khắc là khó tránh được).
Hậu học giả chấp thử suy tường, vạn vô nhất thất.
(Học giả đời sau theo đây mà suy cho rõ, đảm bảo không sai).
91. Đẩu Số chỉ nam
Phu nhân chi sinh dã, bẩm tam tài chi khí,
Mệnh hữu đẩu cách, số hữu hạn kỳ,
Thôi nhi tri quý tiện cùng thông,
Luận nhi chí vi áo diệu.
(Con người ta sinh ra vốn được bẩm thụ cái khí của Tam Tài,
Mệnh thì có cách cục tinh đẩu, Số thì có hạn kỳ,
Suy để mà biết được cái lý cùng thông của quý tiện,
Luận để mà đạt đến cái ảo diệu sâu sắc).
Minh sinh khắc chế hóa chi lý, quan đồng viên thất độ chi cơ,
Thọ yểu hiền ngu, bần dâm chính trực, giai hữu sở ti, bất khả khái luận.
(Hiểu rõ cái lý sinh khắc chế hóa, xét then chốt của sự đồng cung đắc miếu hay lạc hãm,
Thọ yểu hiền ngu, nghèo dâm ngay thẳng, đều theo chỗ ti sở, không thể luận đại khái được).
Tử vi bắc đẩu chi chủ tể giả,
Thiên phủ nam đẩu chi lệnh tinh,
Thổ tinh tôn cư kỳ viên, mạc khả di huân.
Lệnh tinh chuyên ti tài khố, tối phạ không vong.
(Tử Vi là Chúa tể của Bắc Đẩu,
Thiên Phủ là Lệnh tinh Nam Đẩu,
Thổ tinh tôn quý cư cung viên của nó, không nên biến động thay đổi,
Lệnh tinh chuyên quản ti tài khố, rất sợ gặp phải Không Vong).
Chủ tinh nhược động, ngoạt chúng tinh bôn trì.
Lệnh tinh nhược không, tắc tài giai thất hao.
Nhược bất mịch kỳ hư thực, quan kỳ biến thiên, tắc phi minh đẩu số chi tạo hóa giả dã.
(Chúa tinh nếu mà động sẽ khiến cho các sao khác đều xáo động gấp rút,
Lệnh tinh nếu gặp Không Vong sẽ khiến tiền tài hao tổn mất mát.
Nếu không tìm cái hư thực của chúng, xét cái sự biến thiên của chúng, thì không thể tỏ tường được sự vận động tạo hóa của Đẩu Số vậy).
QNB chú: Bài “Đẩu Số chỉ nam” này cứ theo như mạch văn thì tôi đoán là có thể còn rất dài nhưng sách này không thấy có, chỉ có một đoạn ngắn như vậy
– Quách Ngọc Bội-