Nhị Thập Bát Tú
Hệ thống 28 chòm sao (Nhị thập Bát tú) nằm trên đường Hoàng đạo bầu trời được phát hiện sớm, từ Trước Công nguyên nhiều thế kỷ, các nhà Lịch toán cổ dựa vào đó để làm lịch là chính. Ban đầu người xưa chỉ dùng chúng để định ngày đêm, thời tiết khí hậu và 4 mùa mà chưa dùng chúng để dự đoán cát hung.
Mãi đến khi lý thuyết “Âm Dương Ngũ hành” ra đời, được ứng dụng rộng rãi trong khoa Lịch toán, 28 sao mới được “Ngũ hành hóa” và mới trở thành những yếu tố để dự báo.
Do quan sát lâu dài, người xưa nhận ra rằng: các “định tinh” mà mắt thường chúng ta có thể quan sát được đều có vị trí cô” định, ít thay đổi trên bầu trời. Như vậy có thể dùng chúng làm mốc để xác định vị trí của các “hành tinh” như sao Thổ, sao Thủy, sao Mộc, sao Kim, sao Hỏa và cả Mặt trời, Mặt trăng (thất diệu) trong năm.
Ngày xưa đã chọn ra 28 ngôi sao ở gần đường Hoàng đạo – Xích đạo (tức quỹ đạo Quả đất quay quanh Mặt trời mà người xưa tưởng lầm là mặt trời quay quanh Quả đất) để làm mốc, gọi là hệ thống “Nhị thập Bát tú”. Gọi 28 vì sao nhưng thực ra là 28 chùm sao, vì mỗi chòm là tập hợp nhiều sao hợp lại.
Các nhà Thiên Văn Học chia bầu trời ra 4 hướng : Đông Tây Nam Bắc.
Mỗi hướng gồm có 7 chùm sao . Hay là 4 hướng x 7 chùm sao = 28 chùm sao
Ngày nay chúng ta thường gọi là Nhị Thập Bát Tú
Bảy chòm sao hợp lại thành một phương trời và được biểu tượng thành một con vật có mầu sắc theo sự phối thuộc của ngũ hành.
- Phương Đông là con rồng xanh, gọi là Thanh Long (Giác, Cang, Đê, Phòng Tâm Vĩ, Cơ).
- Phương Bắc là con rùa đen gọi là Hoa Cái (Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích).
- Phương Tây là con hổ trắng gọi là Bạch Hổ (Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chuỷ, Sâm).
- Phương Nam là con phượng đỏ gọi là Phượng Các (Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn).
Các chòm sao trên được chia theo bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, vì bốn hướng trong không gian đã được Hà Đồ và lý thuyết Ngũ Hành trong Dịch học quy định:
- 1-6 ở phương Bắc, thuộc Thủy, vì vậy các chòm sao ở phương Bắc – mang hành Thủy – màu đen.
- 2-7 ở phương Nam, thuộc Hỏa,vì vậy các chòm sao ở phương Nam – mang hành Hỏa – màu đỏ.
- 3-8 ở phương Đông, thuộc Mộc, vì vậy các chòm sao ở phương Đông – mang hành Mộc – màu xanh.
- 4-9 ở phương Tây, thuộc Kim, vì vậy các chòm sao phương Tây – mang hành Kim – màu trắng.
- 5-10 ở Trung Tâm, thuộc Thổ, vì vậy các chòm sao Trung Tâm – mang hành Thổ – màu vàng.
28 chòm sao được chia ra 4 hướng, mỗi hướng là 7 sao. Người xưa đã dựa vào trí tưởng tượng của mình để đặt tên cho bốn hệ thống sao hợp với hướng như sau: Bắt đầu từ Phương Đông:
Ngoài ra mỗi chòm ở mỗi phương lại có hai chòm sao ứng với bốn tháng cuối của bốn mùa, nên còn mang thêm hành Thổ, màu vàng. Đó là các sao:
Sao Giác, Cang (thuộc Thanh Long)
Sao Đẩu, Ngưu (thuộc Huyền Vũ)
Sao Khuê, Lâu (thuộc Bạch Hổ)
Sao Tinh, Quỷ (thuộc Chu Tước)
Để áp dụng 28 chòm sao trong việc dự báo cát hung, các nhà thuật sĩ thời Đường ở Trung Quốc lại gán cho các sao hình ảnh những con vật khác nhau và định sẵn cho chúng những tính chất lành dữ khác nhau.
Mặc dù chẳng có sự lý giải hợp lẽ nào, nhưng các nhà Trạch Cát các đời sau lại vẫn cứ theo thế mà ghi trong lịch. Vì thế nó không thể là một phạm trù nhận thức logic, chỉ nêu ra để chúng ta tham khảo.
Thứ Tự | Sao | Tên | Ngũ Hành | Thần Bí Trạch Cát Trung Quốc | Tuyển trạch thông thư VN Lịch thư của Thái Bá Lệ |
01 | Giác | Giao | Mộc | Hôn nhân tế tự mai táng xấu | Tốt, riêng mai táng xấu |
02 | Cang | Long | Kim | Hôn nhân tế tự mai táng xấu | Xấu mọi việc |
03 | Đê | Lạc | Thổ | Tốt tăng tài lộc | Xấu mọi việc |
04 | Phòng | Thỏ | Thái Dương | Mọi việc bất lợi | Tốt mọi việc |
05 | Tâm | Hồ | Thái Âm | Xấu mọi việc | Xấu mọi việc |
06 | Vĩ | Hổ | Hoả | Xấu mọi việc | Tốt mọi việc |
07 | Cơ | Báo | Thuỷ | Hôn nhân tu tạo xấu | Tốt mọi việc |
08 | Đẩu | Giải | Mộc | Xấu mọi việc | Tốt mọi việc |
09 | Ngưu | Trâu | Kim | Xấu mọi việc | Xấu mọi việc |
10 | Nữ | Dơi | Thổ | Tốt mọi việc | Xấu mọi việc |
11 | Hư | Chuột | Thái Dương | Tốt mọi việc | Xấu mọi việc |
12 | Nguy | Én | Thái Âm | Xấu nhiều tốt ít | Xấu mọi việc |
13 | Thất | Lợn | Hoả | Tốt mọi việc | Tốt mọi việc |
14 | Bích | Du | Thuỷ | Tốt mọi việc | Tốt mọi việc |
15 | Khuê | Lang | Mộc | Tốt mọi việc | Xấu riêng xây dựng tốt |
16 | Lâu | Chó | Kim | Tốt mọi việc | Tốt mọi việc |
17 | Vị | Trĩ | Thổ | Xấu mọi việc | Tốt mọi việc |
18 | Mẹo | Gà | Thái Dương | Tốt mọi việc | Xấu mọi việc |
19 | Tất | Chim | Thái Âm | Tốt mọi việc | Tốt mọi việc |
20 | Chủy | Khỉ | Hoả | Tốt mọi việc | Xấu riêng xây dựng tốt |
21 | Sâm | Vượn | Thuỷ | Tốt mọi việc | Xấu riêng xây dựng tốt |
22 | Tỉnh | Hươu Bướu | Mộc | Xấu mọi việc | Tốt mọi việc |
23 | Quỷ | Dê | Kim | Xấu mọi việc | Xấu riêng mai táng tốt |
24 | Liễu | Hoẵng | Thổ | Tốt mọi việc | Xấu mọi việc |
25 | Tinh | Ngựa | Thái Dương | Xấu nhiều tốt ít | Xấu riêng xây dựng tốt |
26 | Trương | Hươu | Thái Âm | Tốt mọi việc | Xấu mọi việc |
27 | Dực | Rắn | Hoả | Tốt mọi việc | Nói chung không tốt |
28 | Chẩn | Giun | Thuỷ | Xấu mọi việc | Tốt mọi việc |
Đối với nhiều người, nhiều gia đình, Nhị thập Bát tú vẫn là một phương pháp chọn ngày, chọn giờ quan trọng. Vì vậy lược kế tính chất cát hung để Quý Vị tiện tham khảo, gạn đục khơi trong đãi cát tìm vàng.
28 sao trên vừa đúng số ngày của bốn tuần lễ, vận động cứ mỗi ngày tương ứng một sao, hết một chu kỳ 28 ngày lại bắt đầu chu kỳ tiếp.
Người ta tính bắt đầu từ sao Chẩn (thuộc Thủy) vào ngày thứ tư tuần thứ tư. Sau đó bắt đầu chu kỳ tiếp lại đúng vào thứ năm (tuần thứ năm) như cũ.
Cũng cần biết 28 chòm sao Nhị thập Bát tú là những chòm sao có thật trên bầu trời và được các nhà thiên văn trung Quốc phát hiện ra hàng ngàn năm trước công nguyên. Sau đó nó trở thành chòm sao có vị trí quan trọng trong thiên văn lịch pháp Trung Quốc và được ứng dụng trong công việc nhà nông.
Trong khi đó, thiên văn học phương Tây cũng chia Hoàng đạo thành 12 chòm sao như: Bạch Dương, Song Ngư, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Bình, Thần Nông, Nhân Mã, Ma kết, Bảo Bình. Đồng thời với vai trò làm lịch, Chùm sao này cũng được sử dụng để dự đoán thời tiết, khí hậu và dự báo quy hoạch đời người.
Biên soạn: Minh Tuệ