Thần Khê Định số của Lê Quý Đôn
Cụ Lê Quý Đôn ban đầu không tin tử vi của Trần Đoàn, sau khi đi sứ Trung Quốc, cụ được các học giả bên ấy tặng bộ sách tử vi của Trần Đoàn và khi đã trên 50 tuổi thì ông mới tập trung công sức và trí tuệ để nghiên cứu nó. Sau đây là bài tựa cuốn “Thần Khê định số” của cụ:
“Tuổi đời nay đã ngoại ngũ tuần
Mới tường số mạng chuyển vần nghiệm thay
Nhớ thuở nhỏ tài hay, học giỏi
Sách Thánh hiền theo đuổi công danh
Rừng Nho bể học ai bằng
Thông minh đáng bậc tài năng hơn đời
Nghe Khổng Tử than trời cầu thọ
Để san xong dịch số huyền vi
Ta cười “Khổng Tử ngu si”
Khôn ngoan tất thắng mà khờ thì thua
Môn tướng số là đồ mê tín
Đoán ba hoa, bàn chuyện vu vơ
Các điều di bại còn kia
Kẻ thì bỏ vợ, người thì gia vong
Nào Trần Đoàn – Tử Bình – Bát Tự
Đọc càng nhiều trí lự hoang mang
Cho nên ở thuở thiếu niên
Ta không tin tưởng ở môn học này
Giàu sang đều do tay mình tạo
Nào ai cho mà bảo tại trời
Chẳng qua mê muội đó thôi
Tài hèn, ngu muội bảo trời không cho
Học lười, dốt nên thi chẳng đậu
Buôn vụng suy, giàu có làm sao
Thế nhân tin tưởng bảo sao
Đem câu số mạng thay vào bình phong
*
Nay xét lại trong vòng quá khứ
Bạn đồng liêu kẻ dở người hay
Giàu nghèo, thọ yểu lạ thay
Khó đem hoàn cảnh giãi bày cho thông
Sức hạng võ sao không hưởng thọ
Lại sớm về, bởi gió nhập xâm
Giàu như Vương Khải – Thạch Sùng
Chỉ trong khoảnh khắc, tay không than trời
* *
Vấn tấm lòng những u hoài
Bách khoa – chủ tử đương thời ai hơn
Chữ “Vô tri vấn bảng Đôn”
Nay coi lại số, tủi hờn mới vơi
Thấy xương – khúc ở nơi hảm địa
Và quan cung khôi ngộ kình – hình
Vướng câu “Lạc hảm văn tinh”
Mới tường số mạng, muôn phần đa đoan
Tuổi cao rồi liệu toan dịch số
Và đem câu “Luận cổ suy kim”
Trần Đoàn đẩu số khảo xem
Qua bao kinh nghiệm viết nên sách này./.
Bài thơ trên của cụ Lê Quý Đôn muốn để lại cho đời sau những điều tâm sự của ông khi bàn về tử vi mà chính ông thuở thiếu thời không bao giờ tin vào nó. Thế rồi trên 50 tuổi thì ông mới vỡ lẽ ra rằng cuộc đời có số mệnh thật và cái số mệnh ấy thật là muôn phần đa đoan. Đa đoan là phức tạp, rắc rối và cực kỳ khó hiểu. Thế rồi bộ Thần Khê định số của ông ra đời để làm sáng tỏ tất cả những gì của cuộc đời mà mọi người đều muốn biết.Thần Khê định số của cụ Lê Quý Đôn là sự kết hợp hài hòa giữa các bộ sao chính tinh của tử vi Trần Đoàn và các nét hình tướng bên ngoài, sắc diện bề ngoài của người có số. Cụ Lê Quý Đôn đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm thực tế và đã viết những bài phú của mình như sau:
- Cung mệnh có sát – phá – tham – liêm:
“Người nào Sát – Phá – Liêm – Tham,
Phải uy nghi, phải hiên hiên ngang mới hùng
Nếu tóc rậm, đầu không vuông vức
Mắt đỏ hoe, miệng thựa thiềm thừ (cóc)
Như say, như tỉnh đôi khi
Ất – Canh – Đinh – Bính liệu bề lo toan
Có Thiên Đức, lòng hiền khả phú
Ngộ Kình – Đà e khó thọ trường
Dần – Thân mạng có Tham Lang
Hổ – Long – Linh – Hỏa hiên ngang anh hùng
Tham ngộ Tuế dễ lòng tửu sắc
Râu rậm xanh, thê thiếp đa phòng
Tham – Hình mắt đỏ môi cong
Nên ta nhân đức, mới mong thọ trường”
- Sao Tham Lang thủ mệnh:
“Tham Lang mà ngộ Lộc – Quyền
Sức như Phàn Khoái, tửu nhường lưu linh
Nếu lại có Mã – Hình – Ấn chiếu
Tài tướng quân danh trấn biên cương
Vai to, nhởn lộ, tiếng vang
Râu hùm, hàm ém, ngang tàng cường hung
Tuổi Mậu – Quý – Kỷ cùng với Giáp
Có tướng trên mới được vương hầu”
- Nhật – Nguyệt Sửu – Mùi tại mệnh:
Bài 1
“Người nào thuộc tuổi Canh – Tân
Âm Dương Mùi – Sửu tướng hình diệp thanh
Mắt ti hí, môi thâm, vai nhỏ
Chân tay thô như vẻ nông phu
Nói năng đi đứng lầm lì
Lòng ti tiện, lại có bề tham lam
Tiền tài công tựa dã tràng
Đời đã lao lực, tân toan khó lường
Khởi tự giáp đến hàng chữ Quý
Sửu – Mùi cung định vị âm dương
Mặt tròn, da trắng, thần hiền
Ấy là Tấu – Cái – Khúc – Xương phò trì
Lòng nhân đức, chăm lo đèn sách
Tình đệ huynh rất mực thuận hòa
Mã – Hình – Kỵ có giao gia
Long hành – hổ bộ cùng là kiếm mi
Công anh cận chốn đơn trì
Có tài tướng soái, bộ hình đảm đương”
Bài 2
“Những người mệnh có âm dương
Phải xem ngay mắt thần quang thế nào
Nếu mặt tròn, không hao chẳng khuyết
Thì tính hiền và biết thủy chung
Lại như thêm cặp mắt trong
Trên đường khoa bảng có công đạt tài
*
Những người hứa hão khoe màu
Mặt thường khuyết hảm, mắt sâu, nhọn mồm
Phải coi lại số cho tường
Kẻo lầm Không – Kiếp – Âm Dương, Kỵ, Hình
Nên suy đoán cho tinh mọi lẽ
Thời mới tường cội rễ sâu ông
Bởi chưng Nhật Nguyệt ngộ Không
Tham tàn vô lại, bạo hung khôn lường
Dù thêm có Khúc – Xương thư chiếu
Càng cơ mưu lắm mẹo hại đời”
- Mệnh có Tử Vi – Lộc Tồn:
“Tử Vi mà gặp Lộc Tồn
Hoặc Long – Phượng chiếu các phương triều về
Dạ hành đắc cách cầm y
Nên coi thần sắc thuộc về màu chi
Thân đầy, nét mặt phương phi
Tam đình câu hảm phát về phú thôi
Lại phải xem nếu người mặt trắng
Thân như que, liến thoắng, mồm loe
Ấy phường gian, yểu kể chi
Giàu sang giấc mộng, đức kia liệu bàn”
- Mệnh có Thiên Tướng – Thiên Mã:
“Sao Thiên Tướng đi cùng Thiên Mã
Gặp Trường Sinh, răng ngựa, chân dài
Đi mau như gió, ấy tài
Nam nhân vượng tướng, nữ thời trân chuyên
Nhưng phải có da đen, mặt lớn
Mã diện thì khanh tướng công hầu
Mã mà Tuần – Triệt khác nhau
Vai so cổ rụt, chân cao ống đồng
Đi như cò long tong bờ ruộng
Thì cơ hàn, khó hưởng thọ trường
Cuộc đời sống kiếp tha hương
Đường nhân duyên khó chu toàn một phen”
- Mệnh có Tử – Phủ – Vũ – Tướng:
“Tử Phủ lập tại Dần – Thân
Thất sát triều đẩu muôn phần tốt thay
Nhưng phải có thân đầy phì nộn
Thì bạc tiền ăn uống không bàn
Đông cung Tử Phủ gian nan
Thân cao, lưng mỏng, tóc vàng, môi cong
Hoặc mắt rắn, đi vung văng
Gian nan lao lực, sống trong cơ hàn
Nếu tâm địa ở ăn điên đảo
Nên tìm xem Kình – Hao có không
Hoặc là Tuần – Triệt lâm xung
Thêm Khoa – Quyền lại gian hùng bất lương
Nhìn nét mặt phương viên triều cũng
Mắt khôn ngoan tất cũng gặp thời
Nhưng gian xảo quyệt hại đời
Tử nhi bất đắc, lưới trời tránh sao”
- Mệnh – Thân có Thiên Mã – Song Hao – Tuần Triệt:
“Mệnh Thân có Tử Thủ
Kiêm Lộc – Mã – Khoa – Quyền
Ngũ trường hoặc ngũ đoản
Trán cao tiếng vang vang
Tuy đạt phần quý hiển
Trên mức trung chi gian
Tứ phủ Khoa – Quyền – Hao
Tuần – Triệt ngộ Hồng – Đào
Tam đình không cân xứng
Da xanh thân lộ hầu,
Miệng hở ngũ mở mắt
Phòng tử nghiệp binh đao”
- Mệnh Thiên phủ có Kình – Đà – Hao – Hỏa lộc – Lộc Tồn:
“Thiên Phủ mà ngộ Kình – Đà
Hoặc cư hoặc chiếu kém phần giàu sang
Nếu thần tướng da đen mũi lộ
Mắt đỏ lồi hoặc có mây che
Mặt đại, mặt tiểu ra chi
Phi bần yểu, tất có khi duyên đồ
Tiếng vang thân gấm mắt to
Mi như lưỡi mác, thần phô dữ dằn
Ấy là hao hoặc Kình – Đà nhập
Theo võ công đao nghiệp tử nan”
- Thất Sát triều đẩu:
“Thất sát đóng tại Dần – Thân
Lộc – Quyền Giáp – Quý nhiều phần chắc nên
Hợp cho các tuổi mệnh Kim
Người cao da trắng thân hiền mới hay
Nếu môi đỏ tóc mây thưa thớt
Đường công danh văn nghiệp dễ thành
Kỵ thay tuổi Bính tuổi Đinh
Vì e Hao – Hổ – Kình – Hình lại xâm
Người xương xẩu, lẹm cằm, mũi hếch
Phải nên phòng bệnh tật hiểm nguy
Đức nhân may giải mọi bề
Trán cao, da tía thiên về phú thương
Nhưng lòng hiểm dạ toan sâu sắc
Thì chỉ e chữ phúc suy vong
Như cây cần bị gió rung
Tử tôn bất khả, long đong tuổi già”
- Đào Hoa – Hồng Loan thư mệnh:
“Tuổi Ất – Hợi mạng về Hỏa Tinh
Ở Thìn cung tất định Đào Hồng
Đào Hoa tài bạch Tý cung
Ngộ Kình Dương ấy hay lòng điểm trang
Vẻ thanh tao óc giang hồ lạ
Thích đi đây đi đó say sưa
Mặt như trái táo, tóc thưa
Khôn ngoan đáng bậc, lọc lừa khó ăn”
- Mệnh có Phá Quân ở Thìn – Tuất:
“Phá Quân Giáp – Quý – Tuất – Thìn
Người gầy mặt thuộc chữ vương chữ điền
Cuộc đời khó làm nên danh phận
Và còn e lận đận gian nguy
Thần quang vàng đỏ lờ mờ
Ly hương còn phải duyên đồ nhiều phen
Dáng đi đứng ngang tàng dữ dội
Tính cương cường còn phải long đong
Ấu niên đã sớm cường hung
Nghịch trò nguy hiểm, yểu vong khó toàn”
- Mệnh có Song Lộc:
“Người nào có song lộc triều viên
Lưng dầy, thân mập, đầu tròn tóc thưa
Mắt sáng quắc, mi như lưỡi kiếm
Sớm công danh cận kiến cửu trùng
Hoặc là Tử Phủ đồng cung
Phải y hình tướng mới không sai lầm
Nếu tiếng nhỏ, mặt không thần sắc
Da trắng xanh, môi tím thâm thâm
Mắt to tai mỏng lẹm cằm
Nhan hồi số, hoặc thọ trong bần hành”
(trích Thần Khê Định số của Lê Quý Đôn)