Skip to content Skip to sidebar Skip to footer

Thần khê định số – Lê Quý Đôn

“Diệc sinh đồng niên, đồng nguyệt, đồng nhật, đồng thì, nhi phú quý thọ yểu bất đồng, khán trường chân, trường giã.” (Trần Đoàn) Nếu sinh cùng năm cung tháng cùng ngày, cùng giờ, mà phú quý, thọ yểu không giống nhau, thì xem nét tướng để phân định số mạng.

Lời của Trần Đoàn tiên sinh đã được dùng làm nền tảng cho Thần khê định số của cụ bảng Lê Quý Đôn nêu lên. Trường hợp hai người sinh cùng một lúc phải được phân biệt do nét tướng, vì tuy sinh vào cùng giờ nhưng có người ăn vào sao này, có người ăn vào sao khác.

Trường hợp chung của mọi người cũng vậy: trên lá số, không phải chỉ có một hai chính tinh ở mệnh mà còn có một số những sao khác cũng rất mạnh: Không, Kiếp, Kình, Kị, Hình, Khốc, Hư, Kiếp Sát, bản mệnh của con người cũng có thể được đặt dưới dấu hiệu của một trong những sao đó, thay vì đặt dưới dâu hiệu của một chính tinh.

Vậy cho nên phải xét tướng, xem vận mạng của con người đặt dưới dấu hiệu của sao nào, sau đó mới quyết đoán được vận mạng.

Nay có:

THẦN KHÊ ĐỊNH SỐ

Lê Quý Đôn

Tuổi đời nay ngoại ngũ tuần.

Mới tường số mạng chuyển vần nghiệm thay.

Nhớ thưở nhỏ tài hay, học giỏi.

Sách thánh hiền theo đuổi công danh.

Rừng nho, bể học ai bằng.

Thông minh đáng bậc tài năng hơn đời.

Nghe Khổng Tử : than trời ! cầu thọ.

Để san xong Dịch số huyền vi.

Ta cười : “Khổng Tử ngu si”.

Khôn ngoan tất thắng ! mà khờ thì thua !

Môn tướng số, để đồ mê tín.

Đoán ba hoa, bàn chuyện vu vơ.

Các điều di bại ! còn kia.

Kẻ thì bỏ vợ, người thì gia vong.

Nào Trần Đoàn, Tử Bình, Tứ Tự.

Đọc càng nhiều, trí lự hoang mang.

Cho nên ở thưở thiếu niên,

Ta không tin tưởng các môn học này.

Giầu, sang đều do tay mình tạo.

Nào ai cho ? mà bảo tại trời.

Chẳng qua mê tín đó thôi.

Tài hèn, ngu muội bảo trời không cho !

Học lười, dốt, nên thi chẳng đỗ. Buôn vụng suy, giầu có làm sao ?

Thế nhân tin tưởng tào lao.

Đem câu số mạng thay vào bình phong .

Nay xét lại trong vòng quá khứ,

Bạn đồng liêu kẻ dở, ngườI hay.

Giầu, nghèo, thọ, yểu lạ thay !

Khó đem hoàn cảnh giãi bày cho thông.

Sức Hạng Võ, sao không hưởng thọ ?

Lại sớm về, bởi gió nhập xâm !

Giầu như Vương Khải, Thạch Sùng,

Chỉ trong khoảng khắc tay không, than trời !

Vấn tâm, lòng vẫn u hoài.

Bách khoa Chư Tử đương thời ai hơn !

Chữ “ Vô tri vấn Bảng Đôn” !

Nay coi lại số, tủi hờn mới vơi,

Thấy Xương Khúc ở nơi hãm địa.

Và Quan cung, Khôi ngộ Kình, Hình.

Vướng câu : “ lạc hãm văn tinh” .

Mới tường số mạng muôn phần đa đoan.

Tuổi cao rồi liệu toan Dịch số,

Và đem câu “ luận cổ suy kim”.

Trần Đoàn đẩu số khảo xem,

Qua bao kinh nghiệm viết nên sách này.

Mạng Tử Vi – Lộc Tồn

Tử Vi mà gặp Lộc Tồn

Hoặc Long Phượng chiếu, các phương triều về

Dạ hành đắc cách cẩm y

Nên coi thần sắc, thuộc về mẩu chi

Thân đầy, nét mặt phương phi

Tam đình câu hãm, phát về phú thôi

Lại phải xem nếu người mặt trắng

Thân như que, liếng thoáng, mồm loe

Ấy phường gian yếu, kể chi

Giàu sang giấc mộng, đức kia liệu bàn.

Tử Phủ / Song Lộc

Người nào Song Lộc triều viên

Lưng đầy thân mập, đầu tròn, tóc thưa

Mắt sáng quắc, mi như lưỡi kiếm

Sớm công danh, cận kiến cửu trùng

Hoặc là Tử Phủ đồng cung

Phải y hình Tướng, mới không sai lầm

Nếu tiếng nhỏ, mặt không thần sắc

Da trắng xanh, môi tím thâm thâm

Mắt to, tai mỏng, lẹm cằm

Nhan Hồi số, hoặc thọ trong bần hàn.

Thất Sát Triều Đẩu

Thất Sát đóng tại Dần Thân

Lộc Quyền giáp Quý nhiều phần chắc nên

Hợp với các tuổi mạng Kim

Người ca da trắng thần hiền mới hay

Nếu môi đỏ tóc mây thưa thớt

Đường công danh văn nghiệp dễ thành

Kị thay tuổi Bính tuổi Đinh

Vì e Hao, Hổ, Kình, Hình lại lâm

Người xương xẩu, lẹm cằm, mũi hếch

Phải nên phòng bệnh tật hiểm nguy

Đức nhàn, may giải mọi bề

Trán cao, da tía, thiên về phú thương

Nhưng lòng hiểu dạ toan sâu sắc

Thì chín e chữ Phúc suy vong

Như cây cằn bị gió rung,

Tử tôn bất khả, long đong tuổi già.

Mạng có Nhật Nguyệt tại Sửu Mùi

Những người mạng có Âm Dương,

Phải xem ngay mặt, thần quang thế nào.

Nếu mặt tròn không hao chẳng khuyết,

Thì tánh hiền và biết thủy chung.

Lại như thêm cặp mắt trong,

Trên đường khoa bảng, có công đạt thành.

Khởi tự Giáp đến hàng chữ Quý

Sửu Mùi cung, định vị Âm Dương,

Mặt tròn, da trắng, thần hiền

Ấy là Tấu Cái Khúc Xương phò trì,

Lòng nhân đức, chăm lo đèn sách

Tình đệ huynh, rất mực thuận hòa

Mã Hình Kị có giao gia

Long hành, Hổ bộ, cùng là kiếm mi,

Công danh cận chốn đơn trì,

Có tài tướng soái, bộ hình đảm đương

……………………………..

Những người hứa hẹn khoe màu,

Mặt thường khuyết hãm, mắt sâu, nhọn mồm,

Phải coi số lại cho tường,

Kẻo lầm: Không, Kiếp, Âm, Dương, Kỵ, Hình,

Nên suy đoán cho tinh mọi lẽ,

Thì mới tường nội rễ sâu nông,

Bởi chưng Nhật Nguyệt ngộ Không,

Tham tàn, e lại bạo hung không lường,

Dầu thêm có Khúc, Xương thủ chiếu,

Càng cơ mưu lắm mẹo hại đời …

…………………………………

Người nào thuộc tuổi Tân Canh

Âm Dương Mùi Sửu, tượng hình diệp thanh

Mắt ti hí, môi thâm, vai nhỏ

Chân tay thô, như vẻ nông phu.

Nói năng đi đứng lầm lì,

Lòng ti tiện, lại có bề tham lam.

Tiền tài, công tựa dạ tràng.

Đời đa lao lực, tân toan khó lường.

Sát Phá Liêm Tham

Người nào Sát Phá Liêm Tham

Phải uy nghi, phải hiên ngang mới hùng

Nếu tóc rậm, đầu không vuông vức

Mắt đỏ hoe, miệng tựa thiềm thừ

Như say, như tỉnh đôi khi

Ất Canh Đinh Bính liệu bề lo toan

Có Thiên Đức lòng hiền khả phú  Ngộ Đà, Kình e khó thọ trường

Tham lang thủ mạng

Tham lang mà ngộ lộc, quyền

Sức như Phàn Khoái, tửu nhường Lưu Linh

Nếu lại thêm Mã, Hình, Ấn chiếu

Tài tướng quân danh trấn biên cương,

Tai to, nhãn lộ, tiếng vang,

Râu hùm, hàm én, ngang tàng cường hung

Tuổi Mậu, Kỷ, Quý, cùng với Giáp,

Có tướng trên mới được Vương hầu.

Dần Thân mạng có Tham Lang

Hổ, Long, Linh, Hỏa hiên ngang anh hùng

Tham ngộ Tuế, dễ lòng tửu sắc

Râu rậm xanh, thê thiếp đa phòng

Tham, Hình mặt đỏ môi cong

Nên tu nhân đức, mới mong thọ trường.

 Phá Quân thủ mạng

Nam bất nhân, Phá Quân Thìn Tuất?

Phá Thìn Tuất thân hình phì đại

…………………………………..

Phá Quân vốn chủ về thủy tinh

Ở Tuất Thìn La Võng đa đoan

…………………………………..

Tuổi Quý, Giáp vai ngang mắt lộ

Mặt chữ Vương, thân thế điêu linh

Đời hay gây chuyện bất bình

Đa tài mà ít, nên danh phận gì

Phá Thìn Tuất thân phì da trắng

Thủy hợp Kim sự nghiệp đạt thành

Mắt hay liếc, nói năng nhân nghĩa

Chính thuộc hàng, giả trá hiểm sâu

Công danh e khó bền lâu

Kình, Hình, Tuần, Triệt đương đầu dễ nguy  Xét thanh sắc, dáng đi sẽ luận

Nói hụt hơi, chuyển vận nhẹ nhàng

Nên phòng tai nạn hình thương

Không tu nhân đức, khó đường giải nguy

Phá Quân cực Bất Nhân

Phá Thìn Tuất uy nghi thô đại

Bụng tròn vo, lưng lại vông đầy

Đi nhanh, ngực ưỡn, vung tay

Trán cao, võng lệch, tóc dầy cứng đen

Râu quai nón, mắt tròn như ốc

Ma ảo thanh, hoặc đục hay nhàn

Đi ngoảnh lại lúc liếc ngang

Lòng gian hiểm, dạ mưu toan khôn lường

Thời ly loạn gặp thường phát hiển

Tài điều quân, quyền biến cơ mưu

Gian tham, tà ác lựa chiều

Bạn đồng liêu khó giữ điều thủy chung

Nặng danh lợi mà không tình nghĩa

Ruột thịt kia, coi tựa quân thù

Cuộc đời như thể cây khô

Tử tôn khó giữ lưu cơ lưu truyền

Cơ Nguyệt Đồng Lương

Người nào Cơ Nguyệt Đồng Lương

Thân hình phải được như hàng nho sinh

Mặt tròn, da trắng, môi hồng

Thiếu niên khoa bảng, sân rồng có phen

Nhưng cũng phải nhìn vào thần mắt

Như sao băng mới được công khanh

Cổ cao, tiếng nói thanh thanh

Văn chương lỗi lạc, luật thình đắc nghi

Nếu mắt lé, răng chìa, mũi nhọn

Trán rộng cao, tóc gọn mà thưa

Thân thô, cổ rụt, lưng gù

Nói năng nhân nghĩa, đón đưa ngọt ngào

Xin chớ vợi tin vào mà hỏng  Thử dò xem lòng rộng, hẹp sao?

Mới tường mọi lẽ thấp cao

Đồng Lương hạng ấy thuộc vào lại nhân

(Lại nhân là loại người có học vấn có lý thuyết để đưa người ta vào các ý

muốn của mình).

Số Tướng – Mã

Sao Thiên Tướng đi cùng Thiên Mã

Gặp Trường Sanh răng ngựa, chân dài

Đi mau như gió ấy tài

Nam nhân vượng tướng, nữ thời truân chuyên

Nhưng phải có da đen, mắt lớn (mắt lộ)

Mã diện thời Khanh tướng, công hầu

Mã mà Tuần Triệt, khác nhau

Vai so, cổ rút, chân cao, ống đồng

Đi như cò long tong ngoài ruộng

Thì cơ hàn, khó hưởng thọ trường

Cuộc đời sống kiếp tha hương

Đường nhân duyên khó châu toàn một phen

Cự Cơ Mão Dậu

Thủy Hỏa Mộc cũng là Kim vị

Có Cự Cơ lưu ý kẻo lầm

Vì TÀi, Quan thuộc đất không

Ất Tân Đinh Bính lại cùng tuổi Canh

Kình Đà Hổ Hao Hình đồng chiếu

Mặt trái xoan, dáng điệu uy nghi

Da trắng, môi đỏ, tóc thưa

Văn chương, công nghệ, kiêm bề giao thương

Hình tướng hoặc ngũ trường, ngũ đoản

Thì công hầu khanh tướng vang danh

Còn người mắt cú, sát thanh

Mưu mô gian xảo, tính tình đổi thay

Đường cư xử, tựa bàn tay

Lật lên úp xuống, phút giây cạn tình

Nên xem Hình Triệt Đà Kình

Tài Quan Di ắt khó lành vận giao  Mãn phần, tử nghiệp thương đao

Những ai định kết tương giao liệu chừng

Thiên Phủ ngộ Kình – Đà – Hao

Thiên Phủ mà ngộ Đà, Kình

Hoặc cư hoặc chiếu kém phần giàu sang

Nếu thần tướng gia đen mũi lộ

Mắt đỏ lồi hoặc có mây che

Mặt Đại, mặt Tiểu ra chi

Phi bần yểu tất có khi duyên đồ

Tiếng vang thân gấm mắt to

Mi như lưỡi mắc, thần phô dữ dằn

Ấy là Hao, hoặc Kình, Đà nhập

Theo võ công đao nghiệp tử nàn

Đại Hao, Hình Kị

Đại hao nếu được hắc bì

Long Ngưu, bạch nhỡn, Uất trì tướng quân.

Nếu Tang, Hổ, Kình, Hình, Hóa kị.

E tâm tư kém vẻ đức nhân.

Hỏa tinh và Kình Dương

Tuổi Ất Hợi mạng về Hỏa tinh,

Ở Thìn cung, tất định Đào, Hồng

Đào hoa, Tài bạch Tý cung

Ngộ Kình Dương, ấy hay lòng điểm trang.

Vẻ thanh tao, óc giang hồ lạ,

Thích đi đây, đi đó, say sưa,

Mặt như trái táo, tóc thưa

Khôn ngoan đáng bực, lọc lừa khó ăn

Leave a comment

0.0/5

Địa chỉ

27 Trường Chinh, Tân Thới Nhất,

Quận 12, HCM

0989224080

Newsletter

Tử Vi Sài Gòn © 2024. All Rights Reserved.

Cart0
Cart0
Cart0
Go to Top