.Cự Môn chủ bệnh khí huyết, thêm tứ sát thì tứ chi tàn tật, môi lưỡi có phá tướng.
Thiên Tướng bình hòa có tật ở da, hãm địa chủ tàn tật.
Thiên Lương cát lợi, thêm Hỏa Linh thì tàn tật.
Thất Sát chủ có bệnh trĩ, bệnh ẩm lạnh, thêm Kình Đà thì tứ chi có tật.
Phá Quân chủ mắt có tật hội Liêm Tham thì chân tay thân eo có tật, cư Tuất thì chủ bị phong tà, nữ nhân hội Vũ Khúc ở cung Tị thì bị trúng khí độc.
Hỏa Linh chủ mắt có phá tướng, da thịt có tật.
Bảy. Thiên Di
Tử Phủ Đồng Lương Xương Khúc Cơ,
Âm Dương Tả Hữu Hỏa Linh hợp,
Liêm Trinh Cự Vũ Dương Đà kỵ,
Sát Phá hãm cung lắm thị phi.
Tử Vi quý nhân phù trì xuất ngoại cát lợi.
Thiên Cơ xuất ngoại nhiều bận bịu, kém an ninh, gặp cát tinh phát đạt.
Thái Dương xuất ngoại cát lợi phát tài, quý nhân phù trì.
Vũ Khúc xuất ngoại nhọc lòng, trong náo nhiệt an thân, gặp cát tinh phát tài.
Thiên Đồng xuất ngoại gần quý nhân, hòa thuận.
Liêm Trinh xuất ngoại nhọc lòng, thường hay ở bên ngoài, ít ở nhà.
Thiên Phủ xuất ngoại cát lợi, gần quý nhân.
Thái Âm xuất ngoại bình hòa, phong lưu lợi ích.
Cự Môn lạc hãm xuất ngoại chiêu thị phi.
Thiên Tướng xuất ngoại cát lợi, được quý nhân đề bạt.
Thiên Lương xuất ngoại được gần quý nhân.
Thất Sát xuất ngoại nhiều bận bịu, trong náo nhiệt an thân, hội Tham Tù Kị thì chết ngoài đường.
Phá Quân xuất ngoại lao tâm tổn sức, kém bình yên.
Tả Phụ xuất ngoại vượng tướng gặp quý mà phát tài.
Hữu Bật xuất nhập có quý nhân phù trì.
Văn Xương xuất nhập hòa hợp với quý nhân.
Văn Khúc xuất nhập bình hòa cát lợi.
Lộc Tồn chủ xuất ngoại đại phú quý, cát lợi.
Hóa Lộc xuất nhập đắc tài lợi.
Hóa Quyền xuất nhập đắc tài phát đạt.
Thiên Khôi chủ lợi kiến đại nhân.
Thiên Việt đắc bạn bè tương trợ.
Kình Đà khó hòa hợp với người, thay đổi bất nhất.
Hỏa Linh phiêu đãng, không no ấm.
Tám. Nô Bộc
Tử Phủ Đồng Cơ Tả Hữu Tồn,
Xương thủ Nhật Nguyệt, đám Phá Quân,
Dương Đà Hỏa Linh Kị phùng Sát,
Liêm Cự khó hòa sau lại vinh.
Tử Vi chủ được lợi, vượng tài tăng của.
Thiên Cơ nhập miếu được hai người đắc lực.
Thái Dương miếu vượng nô bộc đắc lực, phát tài.
Vũ Khúc đắc lực ít bị oán trách, nhưng phần nhiều là nô bộc lúc đói thì đến lúc no lại ra đi (cơ lai bão khứ).
Thiên Đồng chủ nô bộc đắc lực.
Liêm Trinh chủ chiêu oán, kém lực.
Thiên Phủ gặp cát thì lắm kẻ đắc lực.
Thái Âm thì vượng tướng đắc lực.
Tham Lang nhập miếu thì vượng tướng, hãm địa thì vô lực.
Cự Môn chiêu thị phi vô lực, có cũng như không.
Thiên Tướng đắc lực vượng tài.
Thiên Lương nhập miếu được vượng tướng, hãm địa thì vô lực.
Thất Sát chủ ít nô bộc, dẫu có cũng chiêu nô bộc hung dữ sinh sự.
Phá Quân tuổi bé gian khổ, lớn tuổi thì đắc lực.
Tả Hữu chủ lắm kẻ đắc lực.
Xương Khúc nhập miếu được cát lợi, phát đạt, tăng tiến của cải.
Dương Đà hung mãnh, phản trắc, lại hay oán trách.
Hỏa Linh nhập miếu bình hòa, hãm địa chiêu oán trách.
Chín. Quan Lộc
Tử Phủ Đồng Lương cùng Xương Khúc,
Âm Dương Tham Lộc võ chức cường,
Vũ Liêm Phá Cự Kình Dương Sát,
Tả Hữu hợp xung võ chức tốt.
Tử Vi miếu vượng thêm Văn Xương Khôi Việt Tả Hữu, quý đến cực phẩm, chủ tuổi cao phát đạt.
Thiên Cơ nhập miếu được quý cách, hãm địa làm tào lại (quan chức rất nhỏ, hoặc chức vụ không có phẩm cấp), thêm tứ sát thì làm vô dụng, công danh mù mịt.
Thái Dương nhập miếu gặp Tả Hữu Xương Khúc Thái Âm, đại quý nhất phẩm, hãm thì chẳng bền.
Thiên Đồng nhập miếu làm quan văn võ tam phẩm, hãm địa thì làm tào lại.
Liêm Trinh theo võ chức quyền quý, hãm địa bất lợi.
Thiên Phủ nhập miếu được quyền quý, có tài văn võ, hãm địa công danh đao bút làm tạp chức.
Thái Âm nhập miếu quyền quý, hội Thái Dương Tả Hữu Xương Khúc làm quan tam phẩm, bằng không sẽ phóng túng dâm dật, cát hung tương bán, mất chức vị.
Tham Lang nhập miếu gặp Hỏa, Quyền, làm quan văn võ phú quý song toàn, hãm địa bình thường.
Cự Môn nhập miếu theo võ chức, hãm địa bôn ba.
Thiên Tướng miếu thì quyền quý, lộc ăn ngàn hộc, người thường ấm no, thêm sát tinh thì bình bình.
Thiên Lương cư Ngọ gặp Tả Hữu Khôi Việt làm quan văn võ, người thường ấm no, như Hóa Lộc sẽ làm đại thần chức thượng thư.
Thất Sát miếu địa quyền quý chẳng ít, văn nhân thì được chẳng nhiều, người thường cũng vậy.
Phá Quân miếu địa phú quý chẳng nhỏ, nhàn cung chủ làm tạp chức, nếu đắc địa cũng cay đắng lúc thiếu niên.
Tả Phụ nhập miếu làm quan văn võ.
Hữu Bật cùng Tử Phủ Văn Xương chủ văn chương đại quý cách.
Văn Xương nhập miếu gặp Thái Âm thì quyền quý, làm quan đại thần.
Văn Khúc miếu địa có tài văn võ, hãm địa gặp cát thì xuất thân tào lại viên chức, gặp Thái Âm làm tào lại chủ về lễ nghi.
Kình Đà miếu địa quyền quý võ chức, hãm địa chủ bôn ba chẳng no đủ.
Hỏa Linh miếu địa quyền quý, hãm địa chán nản, nhàn cung thêm sát thì bình thường.
Lộc Quyền Khoa Khôi Việt đều chủ quý.
Mười. Điền Trạch
Tử Phủ Liêm Trinh Cự Lộc Xương,
Hỏa Linh Nhật Nguyệt với Cơ Lương,
Dương Đà tiên phá hậu chung phát,
Vũ Tướng đồng cư Tả Hữu lành.
Tử Vi chủ ruộng vườn thịnh vượng tươi tốt.
Thiên Cơ chủ hoán cải bất nhất, hãm địa thì chẳng có phần.
Thái Dương nhập miếu được nhiều tổ nghiệp, hãm địa không được.
Vũ Khúc canh cải bất nhất, nhập miếu tự tay gây dựng.
Thiên Đồng trước khó sau dễ.
Liêm Trinh phá tổ nghiệp, tai hối chẳng an lành
Thiên Phủ tự gây dựng mới mẻ, miếu vượng thì trước sau vững bền.
Thái Âm nhập miếu có phần lớn, hãm địa không có.
Tham Lang vì điền trạch mà phá tài, gặp cát tự tay gây dựng.
Cự Môn vì điền trạch tại thị phi mà gây dựng, nhập miếu tự gây dựng.
Thiên Tướng nhập miếu có phần, tự gây dựng mới mẻ.
Thiên Lương nhập miếu được tổ nghiệp.
Thất Sát gặp cát đại phát, gặp hung phá hao.
Phá Quân nhập miếu tự gây dựng, hãm địa thì phá gia.
Tả Hữu tự gây dựng, được thừa hưởng.
Văn Xương có phần, tự gây dựng.
Văn Khúc tổ nghiệp thường an ổn.
Lộc Tồn tự gây dựng được rất nhiều.
Kình Đà phá hao tổ nghiệp, gặp cát thì phát.
Hỏa Linh chẳng giữ được tổ nghiệp, gặp cát tự tay gây dựng.
Mười một. Phúc Đức
Tử Phủ Đồng Lương Tả Hữu Xương,
Dương Đà vượng địa lạc tha hương,
Vũ Tham Cự Phá Liêm Cơ Sát,
Hỏa Linh Âm Dương hãm bộn bề.
Tử Vi miếu vượng 84 tuổi (QNB chú: ám chỉ tuổi thọ).
Thiên Cơ trước khó sau dễ, 63 tuổi.
Thái Dương nhập miếu vui sướng và quý, thọ 70 tuổi.
Vũ Khúc nhập miếu trước khó sau dễ, chăm chỉ.
Thiên Đồng thọ 93 tuổi.
Liêm Trinh bôn ba kém an nhàn, 69 tuổi.
Thiên Phủ phúc lộc có thừa, 84 tuổi.
Thái Âm nhập miếu vui sướng quý cách, thọ 73 tuổi.
Tham Lang nhạp miếu quý thọ.
Cự Môn miếu quý thọ ngoài 70 tuổi.
Thiên Tướng phúc có thừa, thọ 70 tuổi.
Thiên Lương cuối đời phú quý.
Thất Sát miếu phúc thọ, hãm thì lao lực, ngoài 50.
Phá Quân nhập miếu thì thọ, hãm địa thì không.
Tả Hữu phúc có thừa, thọ kỳ khó so.
Văn Xương phúc thọ lại cát lợi, 77 hoặc 83 tuổi.
Văn Khúc nhập miếu vui sướng, thọ 63 tuổi.
Lộc Tồn đầy đủ cơm áo, phúc thọ song toàn, 73 tuổi.
Kình Dương lao tâm lao lực, 32 hoặc 33 tuổi.
Đà La lao tâm khổt ứ, 48 tuổi.
Hỏa Linh lao lực. ngoài 40 tuổi.
Không Kiếp nghèo, yểu.
Mười hai. Phụ Mẫu
Tử Phủ Âm Dương Văn Khúc Xương,
Tham Lang Tả Hữu ít hình thương,
Cơ Nguyệt Đà Nhận điềm trùng bái,
Hỏa Linh Vũ Phá Sát sớm vong.
Tử Vi chủ phú quý, thêm Kình Đà thì khắc cha trước thiếu niên hợp rời nhà gửi người khác nuôi.
Thiên Cơ chủ phú quý, thêm hung tinh chủ sinh ly khắc hại, hãm địa nhất định vậy.
Thái Dương nhập miếu chủ quý, không khắc, hãm địa thì bình thường lại có khắc, trước khắc mẹ sau khắc cha.
Vũ Khúc bình hòa, thêm Kình Đà khắc hại, thêm sát thì trước khắc mẹ sau khắc cha.
Thiên Đồng phụ mẫu trùng bái (QNB chú: ám chỉ có cha mẹ kế, cha mẹ muôi), ly tổ thì miễn tai vạ, thêm hung tinh thì sớm khắc.
Liêm Trinh thêm Kình Đà hình khắc cực kỳ nặng, có người đỡ đầu tốt, nếu như Hóa Kị chủ khắc.
Thiên Phủ miếu chủ phụ mẫu đắc lực, thêm hung sát thì hình khắc.
Thái Âm miếu không khắc, phụ mẫu bình hòa, thêm sát thì khắc.
Tham Lang phụ mẫu không được song toàn, có người đỡ đầu, ly tổ, thì cát.
Cự Môn thiếu niên khó nuôi, có người đỡ đầu thì cát.
Thiên Tướng phụ mẫu đều cát, thêm sát cũng không hại, đều thọ.
Thiên Lương phụ mẫu bình hòa, hợp có người khác nuôi, thêm sát tai khắc, có tai vạ.
Thất Sát chủ khắc phụ mẫu, lìa nhà xa tổ thì thọ, thiếu niên có tai truân, nhập miếu thì cát.
Văn Xương chủ phú quý, thêm sát xung thì bình thường mà lại khắc.
Văn Khúc chủ cát, thêm Phá Quân có tai vạ, cũng không được thọ.
Tả Hữu phụ mẫu quý, không có sát thì không khắc, thêm hung tinh thì hình khắc.
Lộc Tồn thêm cát thì phụ mẫu quý, thêm sát thì lắm tai, có người đỡ đầu tốt.
Kình Đà phụ mẫu chẳng song toàn, trước khắc cha sau khắc mẹ.
Hỏa Linh miếu chủ phú quý, hãm địa thêm sát bình thường, lìa nhà xa tổ thì thọ, có khắc.
Không Kiếp hình khắc, hợp là con do vợ lẽ sinh ra, có người đỡ đầu thì tốt.
Hình Kị đều khắc.
Lộc Quyền Khoa Khôi Việt đều chủ phú quý bình hòa (bình an hòa thuận).
Trên đây là chỉ dẫn về chư tinh ở 12 cung, trong đó đại lược cát hung tốt xấu, chủ yếu là trong lúc xem phải linh động biến hóa sao cho phù hợp. Cứ theo chế hóa của tinh thần, cung phận miếu hãm, mà luận định các loại mệnh tài quan lục thân điền phúc, không thể gò bó trói buộc.
96. Luận 12 cung Lộc Quyền Khoa Kị miếu vượng
Tý cung Bảo Bình, Quyền đắc địa, Lộc Khoa không đắc địa, Kị không tốt.
Sửu cung Ma Yết, Lộc Quyền Khoa đắc địa, phúc thịnh vượng. Không sợ sát tinh. Kị không hợp, phúc bạc.
Dần cung Nhân Mã, Lộc Quyền Khoa trung bình, phúc chậm. Có sát thì bị phá, Kị không hợp.
Mão cung Thiên Yết, Lộc Quyền Khoa đều cát, cũng sợ sát tinh tấu hợp, Kị đắc địa.
Thìn cung Thiên Xứng, Lộc Quyền Khoa rất đẹp, sát phá cũng không làm hại, Kị vô lực.
Tị cung Xử Nữ, Lộc Quyền Khoa trung bình, phúc chậm, Kị hung.
Ngọ cung Sư Tử, Khoa đắc địa, Lộc Quyền không đắc địa, Kị hung.
Mùi cung Cự Giải, Lộc Quyền Khoa trung bình, phúc chậm, sát xung phản chuyển thành hại, Kị vô lực.
Thân cung Âm Dương (QNB chú: chắc ám chỉ cung Song Tử), Khoa Quyền đắc địa, Lộc không đắc địa, Kị cát lợi.
Dậu cung Kim Ngưu, Lộc Quyền Khoa đều không đắc địa, Kị đắc địa.
Tuất cung Bạch Dương, Lộc Quyền Khoa đắc địa phú quý phúc hậu, Kị hung.
Hợi cung Song Ngư, Lộc Khoa đắc địa, Quyền không đắc địa, Kị không được tốt.
97. Luận 12 cung chư tinh sinh khắc chế hóa
Dần Mão Thìn thuộc Mộc, Ngọ Mùi thuộc Hỏa, Tị Thân thuộc Thổ (QNB chú: dịch nguyên văn. Không hiểu vì sao lại nói thế?!!!), Dậu Tuất thuộc Kim, Hợi Tý Sửu thuộc Thủy, đó là sở thuộc của các cung phận.
Vũ Khúc thuộc Kim, Tham Lang thuộc Mộc, Liêm Trinh thuộc Hỏa, Cự Môn thuộc Thổ, Phá Quân thuộc Thủy, đó là bẩm tính của các phận dã.
Phàm người khán số, trước tiên áp dụng sinh vượng mộ khố, sau đến xem tinh thần tọa lạc cung phận nào. Giả như Kim nhập Hỏa hương, Thủy nhập Thổ hương, Hỏa nhập Thủy hương, Thổ nhập Mộc hương đều là bị chế. Đã bị thụ chế thì sẽ có hóa (biến đổi), cho nên họa với phúc của chúng cũng không thể chấp nhất vào một kiểu mà suy đoán được đâu.
Như Văn Xương là Kim diệu tại Ngọ, chính là nhập Hỏa hương, nhập miếu nên gọi là “tinh lâm miếu vị” (QNB chú: dịch nguyên văn, độc giả lưu ý), tất sẽ thấy cái then chốt của khắc chế, nhưng mà lại không thể gặp Không, nếu như được Thiên Cơ đồng vị, mà Thiên Cơ chính là Mộc diệu, Mộc có thể sinh hỏa, như thế gọi là hữu dụng. Ngoài ra phỏng theo đó.
Lại như Văn Khúc là Thủy diệu ở tại Ngọ gặp Văn Xương là Kim diệu đồng cung (QNB chú: dịch nguyên văn, độc giả lưu ý), cái khí của Văn Xương Văn Khúc hợp nhau, vị chi Thủy Hỏa Ký Tế, cũng phát huy. Nếu cùng với Phá Quân là Thủy diệu đồng cung thì Văn Xương bị thụ chế, chính là Thủy nhiều Kim chìm, tuy nhập miếu mà vô dụng. Ngoài ra phỏng theo đó.
Giả như Kim nhập Thổ hương, Mộc nhập Thủy hương, Thủy nhập Kim hương, Hỏa nhập Mộc hương, Thổ nhập Hỏa hương, chính là đắc địa, tuy tổn mà hữu dụng.
Lại như Liêm Trinh là Hỏa diệu tại Dần Mão là chỗ của Mộc, là Mộc có thể sinh Hỏa đắc viên, nếu như Vũ Khúc là Kim diệu với Liêm Trinh đồng độ (QNB chú: dịch nguyên văn, độc giả lưu ý) thì Vũ Khúc là tài tinh mà vô dụng vậy. Ngoài ra phỏng theo đó.
Lại như Liêm Trinh hóa Kị tại Hợi Tý Sửu là chỗ của Thủy, thì Thủy có thể khắc Hỏa, tuy Kị mà vô hại, ngoài ra phỏng theo đó.
Đó là cái lý của ngũ hành sinh khắc chế hóa, học giả xét cho tường tận ( hic hic…?!!!)
98. Khán mệnh tổng luận
Phàm mệnh có sao của hợp chiếu, có sao của chính chiếu, có sao của củng chiếu giáp chiếu. Nhưng mà chính chiếu không như củng chiếu, hợp chiếu không như giáp chiếu. Chính chiếu thiên về chiếu của họa phúc khó, hợp chiếu giáp chiếu thiên về họa phúc dễ.
Chính chiếu là như thế nào, chính là đối cung vậy. Hợp chiếu là như thế nào, chính là tam hợp vậy. Củng chiếu là như thế nào, chính là tứ chính vậy. Nhưng mà giáp cung tuy ác, mà bản cung thấy cát tinh chính tọa thì cũng có thể nói là phúc. Giáp tinh tuy thiện, mà bản cung thấy ác diệu lâm vào thì cũng có thể luận là hung.
Phàm cung an Thân hợp với sao thanh quý, cung Mệnh hợp với sao phúc thọ, sao Dương chủ văn lại ở tại cung Dương thì làm văn vẻ hoa mỹ chi sĩ, sao Âm chủ võ ở tại miếu vượng lại là cung Âm thì làm võ dũng cương mãnh chi nhân. Phàm sao Dương cư Dương, Âm cư Âm, đều theo chủng laoij của chúng mà là đắc địa, ngược lại thì chính là âm dương thác loạn.
Phàm trong một ngày thì 6 giờ từ Mão tới Thân là Dương, còn 6 giờ từ Dậu tới Dần là Âm. Nhưng mà cũng có Âm Dương phản bối mà lại nhiều phú quý, cần xem củng chiếu như thế nào, cho nên viết trong số nghị luận rất tinh vi, phép đoán ở tại người ta có thể biến hóa linh hoạt vậy.
99. Khán mệnh tiệp pháp (Phép xem mệnh nhanh/thành công)
Xem mệnh chẳng qua nói về sinh khắc chế hóa thời số là khẩn gấp, mừng nhất tọa ở chỗ Tràng Sinh Đế Vượng, ưa thích được ở chỗ Tử Vi Thiên Phủ Quý Nhân Lộc Mã, ghét lạc vào Không Vong. Vả lại Đế tinh không hợp lập ở nơi đơn độc mà phải có phù tá. Sát diệu chẳng nên tụ tập quần cư vì chính là hung đồ kết đảng. Tử Phủ Nhật Nguyệt Tả Hữu giáp Mệnh định là quý, Liêm Trinh Phá Quân hao tù nhập Mệnh định làm phá bại. Các thiện tinh đồng cư thì phúc của chúng tất sẽ tụ tập. Các hung tinh phản bối thì họa của chúng chẳng nhẹ. Đại hạn chỉ họa phúc của 10 năm, Tiểu hạn suy đoán về tươi tốt hay khô héo trong một năm. Đại hạn mà đã suy, Tiểu hạn bổ cứu thế nào. Đại hạn chưa “đảo”, Tiểu hạn có ngại gì đâu. Cho nên cần nhìn các loại Lưu niên chư sát, Thân sát, Mệnh sát, Lưu sát, Bệnh Phù, Tử Phù, Bạch Hổ, Thái Tuế, Hỏa Linh, Quan Phù, Tang Điếu, tuy có thể là tai vạ, nhưng nếu hạn số kiên cố thì tai họa cũng miễn, người thuật sĩ nên rõ.
Ngay khi xem mệnh thì trước tiên xem nạp âm bản mệnh sở thuộc sao nào, như Giáp Tý Ất Sửu Hải Trung Kim, tức là lấy Kim tinh làm chủ, bèn xem Vũ Khúc thuộc Kim ở tại cung phận nào, để mà biện luận về họa phúc, ngoài ra cứ phỏng theo đó. Nếu như ở tại những chỗ sinh vượng hoặc vị trí có quý nhân, với Quan Lộc đồng cung thì liền luận là cát. Nếu như với Thất Sát Hình Kị cùng triền độ, chính là hạ đẳng mà luận.
Ngay khi xem mệnh cần trọng yếu phép xem số nông sâu, trước tiên lấy Mệnh chủ là khẩn, Thân chủ là thứ, nhưng mà sau đó thì có thể lấy đồng thời nhị chủ mà tham luận, từ đó định ra phú quý bần tiện vậy. Giả như người mệnh Thổ, mà Cự Môn chính là Thổ Tinh, tinh của nó hóa ám, không thể không luận là ám diệu được, nếu như đắc địa không hãm có thêm cát tinh hội thì sẽ cát lợi mà không thể nói là họa được.
Ngay khi xem mệnh cần phải phân biệt phần cốt yếu, sau khi an Mệnh an Thân, trước tiên cần khán Thân Mệnh tọa Sinh Vượng Mộ Khố không lạc Không Vong như thế nào, Lộc Mã không lạc Không Vong, nên lấy chính tàng Địa Không là khẩn, sau đó xem Tử Vi Đế Tướng đắc địa như thế nào, nếu như Đế tinh mất triền độ thì xem Lệnh tinh Vũ Khúc đắc địa ra sao, mới có thể luận phú quý. Cái quý của nó trước tiên xem Thái Dương đắc độ, cái phú của nó lại xem Thái Âm miếu hãm, cái bần của nó xem thêm có cát diệu ở Thân Mệnh cung hay không, hay là lại hãm địa gặp ác sát, liền luận định là bần tiện vậy.
Ngay khi xem mệnh phải xét rõ việc nói về phú quý của nam nữ, như Thân Mệnh đều cát, lại gặp thêm hạn tốt thì nhất định không phá bại mà tự nhiên phát vượng, cả đời hưởng phúc, như tùng bách tươi tốt, được mưa móc sinh sôi, rồi ra tốt đẹp.
Ngay khi xem mệnh cần phải xét rõ việc nói về sự bình ổn vững vàng của nam nữ, như Thân Mệnh có căn nguyên kiên cố, thì vào vận hạn không tốt thì vẫn được an nhiên tự tại, gia đình vui vẻ, có sát tụ tập thì có sự phá bại nhưng trong hung tất sẽ được cứu, thân mệnh không bị thiệt hại.
Ngay khi xem mệnh cần phải xét rõ việc nói về sự bần cùng của nam nữ, như Thân Mệnh không có cát, lại thêm ác sát tụ tập đến, thì xuất thân nghèo khó, y lộc gian khổ khó mà đạt được, chỉ có thể ở nơi bình địa (chỗ an ổn, an phận) thì phát phúc, nhưng mà qua hết 10 năm vận tốt, tới 10 năm sau đó lại từ từ suy thoái, tiền tài phá tán, gặp phải việc quan tụng tang sự. Thân Mệnh mà không có cát diệu thì không thể bền chặt vững chắc được.
Ngay khi xem mệnh cần phải biện luận về sự sinh tử của nam nữ, trước tiên xem Tiểu hạn sau đó lại xem Đại hạn, nếu mà Đại hạn yếu nhược thì tất 10 năm khốn khổ, Tiểu hạn mà thuận thì tất một năm vinh hoa tươi tốt, có thể một năm sau đó thì tai ương (của 10 năm đại hạn ấy) lại quay trở lại phát tác. Phàm luận sinh tử thì ngoài Mệnh Thân không có Chính Tinh, chỉ cần xem Đại Tiểu nhị hạn, Thái Tuế, có gặp sát hung tinh thế nào, xem Đế Lộc có đối xung tam hợp và bản cung có thấy không, nếu như mà thấy thì tất sẽ bại như không nguy, nếu như Thân sát Mệnh sát, Lưu niên chư sát giao hội vào chỗ của Đại Tiểu nhị hạn, Đế Lộc lại hãm hoặc bị chế nơi Không Vong chi địa, thì nhất quyết sẽ chết chẳng cần nghi ngờ. Nếu như có thể vượt thoát qua được, thì bản thân cũng có tang, tại họa, tật ách, phá tán tiền tài, chẳng thể tránh được.
Ngay khi xem về vợ chồng của người nữ, hạn với người nam không giống như nhau, sao với người nam cũng có sự khác biệt. Lấy Di mà sát nhập là hãm, lấy Tài Bạch Điền Trạch nhập sát là thứ nhược, nếu như cư chỗ sinh vượng đều tốt đẹp, lấy Thân Mệnh Phu Tử Phúc Đức là chính cường, nếu như mà cư vào chỗ của Không Vong, chiếu vào Thân Mệnh, thêm sát là cách cô độc. Cho nên cái khẩn trương nhất, sợ Đào Hoa nhập ở Thân mệnh, Hình Sát hội vào chỗ xung hợp, thế thì là dâm tiện thấp kém mà đoán. Lại nếu như Đồng Lương ở cung Tị Hợi, Cơ Nguyệt ở Dần Thâ, Phá Quân ở Mão Dậu, đều luận là dâm. Dẫu có trinh chính cũng chủ hình khắc hạ tiện, nếu như Tài Điền Phu Tử đều đắc cát diệu thì lập tức đoán là cát lợi.
100. Luận về 12 cung các sao thất hãm bần tiện
Sửu Mùi Cự Cơ vi hạ cách,
Dần Thân Cơ Nguyệt phúc tu khinh,
Mão Dậu bất hỉ phùng Dương Nhận,
Thìn Tuất Tử Phá tối vi sân,
(Sửu Mùi Cơ Cự là hạ cách
Dần Thân Cơ Nguyệt phúc nhẹ tênh
Mão Dậu chẳng vui gặp Kình vậy
Thìn Tuất, Tử Phá rất đáng giận).
Tị Hợi Đồng Lương Tham Trinh hãm,
Ngọ cung Âm Cự bất kham xưng,
Thân cung Tham Vũ vi hạ cách,
Dậu phùng Cơ Cự Nhật vô tinh,
(Tị Hợi Đồng Lương Liêm Tham hãm
Ngọ cung Nguyệt, Cự, chẳng xứng đáng
Thân cung Tham Vũ là hạ cách
Dậu phùng Cơ Cự, Nhật vô minh)
Mão Thìn Tị Ngọ phùng Âm tú,
Tuất Hợi phùng Dương diệc bất vinh,
Tham Sát Tị Hợi cư hãm địa,
Phá Quân Mão Dậu bất vi thanh,
(Mão Thìn Tị Ngọ, gặp Thái Âm
Tuất Hợi gặp Nhật cũng chẳng vinh
Tham, Sát Tị Hợi, cư hãm địa
Phá Quân Mão Dậu, không sáng đâu).
Gia Sát ngộ Kiếp vi gian đạo,
Thử thị hình tà bất tất luận,
Tham Lang hóa lộc cư tứ mộ,
Tuy nhiên ngộ cát diệc trung bình,
(Thêm Sát gặp Kiếp là gian đạo
Như vậy tà gian khỏi cần luận
Tham Lang hóa Lộc cư tứ Mộ
Dẫu cho gặp cát cũng trung bình)
Mệnh triền nhược địa hưu phùng Kị,
Không Kiếp Kình Dương gia Hỏa Linh,
Nhược phi yểu chiết chủ hạ tiện,
Lục súc chi mệnh bất khả bằng,
(Mệnh vào nhược địa đừng gặp Kị
Không Kiếp, Kình Dương với Hỏa Linh
Nếu không chết yểu thì hạ tiện
Số của súc sinh chẳng muốn nhờ)
Vượng địa phát phúc chung viễn đại,
Hãm địa tranh vanh đáo để khuynh,
Nhị luận bất quá ngũ bách tự,
Phú quý bần tiện biệt đắc minh.
(Vượng địa, phát phúc sau càng lớn
Hãm địa, cao ngất rồi cũng nghiêng
Hai phần luận ấy năm trăm chữ
Phú quý bần tiện, chia mà biết).
101. Định Phú Cục
– Tài Ấm giáp Ấn (Tài tinh và Ấm tinh kề bên Ấn tinh)
Thiên Tướng thủ Mệnh, Vũ Khúc Thiên Lương đến giáp thì là vậy. Điền Trạch cung cũng thế.
– Nhật Nguyệt giáp Tài (Nhật Nguyệt cùng kề bên Tài tinh/cung)
Vũ Khúc thủ Mệnh, Nhật Nguyệt đến giáp cung thì là vậy. Tài Bạch cung cũng thế.
– Tài Lộc giáp Mã (Tài tinh Lộc Tinh kề bên Thiên Mã)
Mã thủ Mệnh, Vũ Khúc và Lộc cùng đến giáp thì là vậy. Ở nơi sinh vượng càng tuyệt diệu.
– Ấm Ấn củng Thân (Ấm tinh và Ấn tinh hướng về hay vây quanh cung an Thân)
Thân lâm vào Điền Trạch cung, Lương Tướng xung củng thì là vậy, đừng tọa ở Không Vong.
– Nhật Nguyệt chiếu bích (Nhật Nguyệt cùng chiếu vào bức vách)
Nhật Nguyệt lâm vào Điền Trạch cung thì là vậy, hỉ cư ở Mộ cung.
– Kim xán quang huy (Kim quang của mặt trời xán lạn)
Thái Dương đơn thủ, Mệnh tại Ngọ cung thì là vậy.
102. Định Quý Cục
– Nhật Nguyệt giáp Mệnh
Bản cung không tọa chỗ Không Vong, gặp cách ấy có cát tinh thì là vậy (được Quý).
– Nhật xuất Phù Tang (Mặt Trời xuất hiện ở Phù Tang)
Nhật tại Mão thủ mệnh thì là vậy, thủ ở Quan Lộc cung cũng thế.
– Nguyệt lạc Hợi cung (Nguyệt cư trú nơi cung Hợi)
Nguyệt tại Hợi cung thủ Mệnh thì là vậy, lại có tên “Nguyệt lãng thiên môn” (Trăng sáng ở cửa Trời).
– Nguyệt sinh thương hải (Trăng trên biển xanh)
Nguyệt tại Tý cung thủ Điền Trạch cung thì là vậy.
– Phụ Bật củng chủ (Phụ Bật củng chiếu chủ tinh)
Tử Vi thủ Mệnh có hai sao ấy củng chiếu thì là vậy, giáp cung cũng thế.
– Quân thần khánh hội (Vua tôi cùng vui mừng tụ hội)
Tử Vi Tả Hữu cùng thủ Mệnh thì là vậy, hội thêm Phủ Âm Vũ thì đẹp thêm.
– Tài Ấn giáp Lộc (Tài tinh và Ấn tinh kề bên Lộc tinh)
Lộc thủ Mệnh, Lương Tướng đến giáp thì là vậy, nhập Tài Quan cung cũng thế.
– Uyên ương Lộc hội (Hai Lộc cùng hội như đôi uyên ương)
Thiên Lộc Hóa Lộc lâm thủ Thân Mệnh thì là vậy.
– Lộc Mã giao trì (Lộc và Mã giao hội hướng về nhau)
Hai sao đó lâm vào Thân Mệnh, được thêm cát hóa đồng cung thì là như vậy.
– Lộc Mã bội Ấn (Lộc Mã tô điểm cho Ấn)
Mã phía trước có Lộc Ấn đồng cung thì là vậy.
– Tọa Quý hướng Quý (Ngồi ở chỗ quý nhân mà nhìn về hướng quý nhân)
Khôi Việt tại Mệnh cùng tọa củng thì là vậy.
– Mã đầu đới kiếm (Kiếm treo đầu ngựa)
Trước Mã mà có Dương Nhận thì là như vậy, không phải là cái cách cư Ngọ.
– Thất Sát triều đẩu (Thất Sát chầu về chỗ của Tử Vi)
Xem chú giải ở trước. Dần Thân Tý Ngọ an thân mệnh gặp Thất Sát.
– Nhật Nguyệt tịnh minh (Nhật Nguyệt cùng sáng rạng rỡ)
Âm Dương Nhật Nguyệt đồng cung chính là như vậy, Mệnh Nhật Tị Nguyệt Dậu chầu về.
– Minh châu xuất hải (Ngọc sáng xuất hiện trên biển)
Xem chú giải ở trước
– Nhật Nguyệt đồng lâm (Nhật Nguyệt cùng lâm vào một chỗ)
Xem chú giải ở trước
– Hình Tù giáp Ấn (Hình tinh và Tù Tinh kề bên Ấn tinh)
Thiên Hình Liêm Trinh cùng lâm Thân Mệnh là chủ người uy dũng võ chức.
– Khoa Quyền Lộc củng (Được cả Khoa, Quyền, Lộc củng chiếu)
Xem chú giải ở trước
– Tham Hỏa tương phùng (Tham Lang gặp Hỏa Tinh)
Hai sao này cùng cư miếu vượng thì là vậy.
– Vũ Khúc thủ viên (Vũ Khúc thủ Mệnh)
Vũ Khúc thủ mệnh Mão cung thì là vậy, ngoài ra không phải.
– Phủ Tướng triều viên (Phủ Tướng chầu về Mệnh)
Xem chú giải ở trước
– Tử Phủ triều viên (Tử Phủ chầu về Mệnh)
Dần an Mệnh, Ngọ Tuất có Tử Phủ đến chầu.
– Văn tinh ám củng (Văn tinh ám hợp, củng chiếu)
Mệnh cung có cát, Thiên Di, Quan Lộc, Tài Bạch, ba cung đó đều có văn khoa tinh chiếu đến.
– Quyền Lộc sinh phùng (Được gặp Quyền, Lộc tương trợ cho)
Hai sao này thủ Mệnh miếu vượng thì là vậy, hãm thì không phải.
– Dương Nhận nhập miếu (Kình Dương nhập miếu)
Thìn Tuất Sửu Mùi thủ Mệnh nhập miếu gặp cát tinh thì là vậy.
– Cự Cơ cư Mão (Cự Cơ ở Mão)
Người tuổi Tân tuổi Ất, tại cung Mão có 2 sao ấy thủ Mệnh, gặp Tả Hữu Xương Khúc.
– Minh Lộc ám Lộc (Lộc tỏ Lộc mờ)
Người tuổi Giáp an Mệnh ở cung Hợi, Khoa (???!!!) thủ Mệnh, Lộc cư Dần.
– Kim dư phù giá (Phù trợ bên xa giá xe vàng của vua)
Tử Vi thủ Mệnh, trước sau có Nhật Nguyệt đến giáp thì là vậy.
103. Định bần tiện cục
– Sinh bất phùng thời (Sinh ra không gặp thời)
Mệnh tọa nơi Không Vong gặp Liêm Trinh thì là vậy.
– Lộc phùng lưỡng sát (Lộc tinh gặp cặp sát tinh)
Lộc tọa nơi Không Vong, lại gặp Không Kiếp sát tinh thì là vậy.
– Mã lạc Không Vong (Thiên Mã bị Không Vong án ngữ)
Mã mà lạc Không Vong thì dẫu Lộc có xung hội thì cũng vô dụng, chủ bôn ba.
– Nhật Nguyệt tàng huy (Nhật Nguyệt không có ánh sáng)
Nhật Nguyệt phản bối lại gặp Cự ám tinh thì vậy.
– Tài dữ Tù cừu (Tài tinh với Tù tinh là thù địch)
Vũ Khúc và Liêm Trinh cùng thủ Thân Mệnh thì là vậy.
– Nhất sinh cô bần (Một đời cô đơn ngèo khó)
Rằng Phá Quân thủ Mệnh lại hãm địa thì là vậy.
– Quân tử tại dã (Người quân tử phải ở chốn thôn dã, quê mùa)
Rằng Tứ sát Tham Hình giao hội mà lại lâm vào hãm địa thì là vậy.
– Lưỡng trùng hoa cái (Cả đôi bị hại)
Rằng Lộc Tồn, Hóa Lộc tọa mệnh nhưng gặp Không, Kiếp thì là vậy